2017-03-31 16:24:00

Vài nét về hai mục đồng được Đức Mẹ hiện ra tại La Salette


Ngày 19 tháng 9 năm 1846 Đức Mẹ đã hiện ra với hai mục đồng tại La Salette là Mélanie Calvat 14 tuổi và Maximin Giraud 11 tuổi. Maximin Giraud sinh năm 1835 tại Corps, là con ông Maximin Germain Giraud đến từ vùng bên cạnh và bà Anne Marie Templier người làng Corps. Maximin chỉ được 17 tháng khi mẹ qua đời để lại một đứa con gái 8 tuổi là Angélica. Ít lâu sau đó cha của Maximin tái hôn. Maximin lớn lên trong hoàn cảnh éo le đó. Là một đứa trẻ hiếu động và nghịch ngội Maximin thường la cà đây đó trong làng, quanh quẩn tại các hàng quán hay chạy chơi với con chó và con dê cái. Bà mẹ ghẻ không cảm thấy cậu hấp dẫn tí nào. Vào giữa tháng 9 năm 1846 một nông dân tại làng Ablandins tên là Pierre Selme có cậu bé mục đồng bị đau. Ông đến Corps tìm bạn mình là ông Giraud làm nghề chế và sửa xe ngựa, và xin bạn cho mình mượn chú bé Maximin vài ngày. Ông bố trả lời: “Maximin mà làm mục đồng à? Nó lơ đễnh lắm không coi bò được đâu!”. Hai người thảo luận với nhau rồi đồng ý và thế là ngày 14 tháng 9 chú bé Maximin đến làng Blandins. Ngày 17 ông Selme trông thấy Melanie và thuê luôn cả bé gái này nữa. Thế là hôm sau ngày 18 tháng 9 hai trẻ mục đồng đi chăn bò thuê cho ông Selme.

Mélanie cũng sinh tại làng Corps trong một gia đình đông con. Cha là Pierre Calvat làm nghề đốn củi và mọi công việc người ta thuê, Mẹ là bà Giulia Barnaud. Hai ông bà có 10 người con. Mélanie là con thứ tư. Gia đình Calvat nghèo tới độ đôi khi hai ông bà sai các con đi ăn xin ngoài đường. Mélanie mau chóng trở thành trẻ chăn thuê cho các nông dân quanh vùng. Từ mùa xuân năm 1846 tới cuối mùa thu, chúng ta tìm thấy cô bé tại nhà ông Baptiste Pra làng Ablandins một trong những vùng thuộc La Salette. Người hàng  xóm bên cạnh là ông Selme, người đã thuê chú bé Maximin một tuần để thay thế cho chú mục đồng của ông bị bệnh không đi chăn bò được. Trước thằng bé Maximin lắm mồm, Mélanie vốn tính nhút  nhát và ít nói lại càng ít nói hơn.

** Tuy tính tình khác nhau, nhưng có thể nói cả hai đứa bé có nhiều điểm giống nhau. Cả hai đều là người làng Corps nơi có gia đình sinh sống. Chúng không biết nhau, vì Mélanie vắng nhà trong những thời gian rất lâu. Chúng đều nói thổ ngữ địa phương và không biết một chữ tiếng Pháp nào. Không được đi học, không biết giáo lý, không biết đọc biết viết. Bà mẹ của Mélanie luôn luôn trong tình trạng tìm việc làm và vất vả lo lắng cho lũ con đông, nên chẳng có giờ cho tình yêu thương hay có          quá ít. Vào thời Đức Mẹ hiện ra nghèo nàn là đặc tính của Maximin và Méalanie: nghèo của cải, nghèo văn hóa và nghèo tình thương. Nhưng chúng là sáp đồng trinh mà biến cố Đức Mẹ hiện ra sẽ ghi các dấu vĩnh viễn. Mélanie rất khác Maximin vì sống với những người xa lạ và chỉ biết cuộc sống tại gia đình trong các tháng mùa đông khó khăn, phải chịu đói khát và lạnh lẽo. Đó là lý do khiến cô bé nhút nhát và ít nói, thường chỉ trả lời với tiếng “có” hay với tiếng “không”. Ông chủ Jean Baptiste Pra làm chứng  cho biết.

Ngày thứ bẩy 19 tháng 9 năm 1846 từ sáng sớm hai trẻ mục đồng lên núi Planeau với 4 con bò cái và Maximin với con dê cái và con chó Lulù. Vào giữa trưa chuông nhà thờ làng điểm kinh Truyền Tin. Khi đó hai trẻ mục đồng dẫn bò đến suối nước của súc vật, là một vũng bùn có nước suối chảy qua. Sau đó chúng dẫn bò lên một đồng cỏ bằng trên núi Gargas. Trời nóng nực, hai trẻ mục đồng lên cao hơn tới suối nước cho người uống và dùng bữa trưa thanh đạm gồm bánh và phó mát, rồi uống nước suối mát. Các mục đồng khác chăn đàn vật ở dưới thấp hơn lên nhập bọn và chuyện vãn với nhau một lúc. Sau đó Maximin và Mélanie đi ngang qua suối và xuống phía đưới có mấy đống đá gần một con suối cạn. Đó là suối con. Mélanie đặt túi đựng bánh của mình trên đó, còn Maximin thì đặt chiếc áo khoác nhỏ của mình với đồ ăn trưa. Trái với thói quen, hai trẻ mục đồng nằm dài trên cỏ và ngủ thiếp đi. Nằm phơi mình dưới ánh nắng mặt trời ấm áp cuối mùa hè thật là thú vị. Bên trên bầu trời xanh lơ không có một đám mây. Tiếng suối chảy róc rách gia tăng thêm cái yên tĩnh và thinh lặng của núi rừng. Bất thình lình Mélanie thức giấc, lay người Maximin và nói: “Maximin, tới mau chúng ta đi coi bò… Không biết chúng ở đâu!”. Hai mục đồng vội vã leo lên phía núi đối diện với Gargas. Khi đi vòng sang phiá bên kia chúng trông thấy mấy con bò đang yên hàn nhai cỏ. Hai bé an lòng. Khi Mélanie xuống trở lại được nửa đường cô  bé kinh ngạc đến bỏ rơi chiếc gậy và nói: “Maximin tới coi ánh sáng dưới kia kìa!” Bên cạnh con suối nhỏ trên một đống đá có một quả cầu bằng lửa. “Nó giống như thể mặt trời đã rơi xuống đó”. Nhưng mặt trời tiếp tục chiếu sáng trên bầu trời không mây.

** Maximin vừa chạy tới vừa hỏi: “Ở đâu, ở đâu?” Mélanie giơ tay chỉ thung lũng nhỏ nơi hai đứa đã nằm ngủ. Maximin đến bên cạnh, lạnh ngắt vì sợ hãi và nói với Mélanie: “Cầm lại cây gậy của chị đi! Em cầm gậy của em và sẽ đập cho nó một cái, nếu nó làm gì chúng ta”. Ánh sáng di động và xoay trên chính mình. Hai trẻ mục đồng không có từ để diễn tả cảm tưởng sống động giải toả từ quả cầu lửa ấy. Có một phụ nữ hiện ra ngồi hai tay ôm đầu, khủy tay chống trên gối trong thái độ vô cùng buồn bã. Người phụ nữ đẹp đứng lên. Hai trẻ mục đồng không nhúc nhích. Bà nói với hai em bằng tiếng Pháp: “Các con hãy đến gần đây, đừng sợ hãi! Ta ở đây để kể cho các con một tin lớn”. Khi đó hai trẻ mục đồng đi xuống phiá bà. Chúng nhìn chằm chặp vào bà. Bà không ngừng khóc.

Người ta có cảm tưởng đây là một bà mẹ bị các con đánh và chạy trốn lên núi để khóc. Bà Đẹp cao lớn và hoàn toàn sáng láng. Bà ăn mặc như các phụ nữ trong vùng, áo dài, có thắt một tấm khăn làm việc ngang lưng, một khăn choàng chéo và cột phía sau, một chiếc mũ của các phụ nữ nông dân. Đầu có triều thiên hoa hồng, hoa hồng viền khăn và giấy. Trên trán có một ánh sáng rạng ngời giống như một triều thiên. Trên vai có một vòng xích dài. Ngực đeo một dây chuyền dài có thánh giá rực rỡ, hai bên có một cái búa và các kìm. Bà Đẹp nói với hai trẻ mục đồng. Hai em cho biết: “Bà đã khóc trong suốt thời gian nói chuyện với chúng tôi”.  Cùng nhau hay một cách riêng rẽ hai trẻ mục đồng đều kể lại sự việc như nhau, tuy có vài khác biệt nhỏ nhưng không hại tới ý nghĩa chính của biến cố. cho dù người hỏi các em là các khách hành hương hay những người tò mò, các nhân vật quan trọng hay giới giáo sĩ, những người điều tra hay các nhà báo.  Cho dù họ có tán thành, có thành kiến hoặc có ý xấu, hai em đều kể lại những gì đã thấy đã nghe.

Văn bản sứ điệp Mélanie gủi cho ĐGH Pio IX ngày mùng 6 tháng 7 năm 1851 và văn bản sứ điệp Maximin Giraud gửi cho ĐGH Pio IX ngày mùng 3 tháng 7 năm 1851 bao gồm các điểm chính sau đây:

Thời điểm cơn giận của Thiên Chúa đã tới rồi. Nếu Kitô hữu Pháp không hoán cải, người ta không sám hối và không ngừng làm việc ngày Chúa Nhật và tiếp tục nguyền rủa danh thánh Chúa; tắt một lời nếu bộ mặt trái đất không thay dổi, Thiên Chúa sẽ báo thù chống lại dân vô ơn và nô lệ ma quỷ. Paris, thành phố vấy mọi thứ tội phạm này chắc chắn sẽ chết. Thành phố Marseille sẽ bị phá hủy trong thời gian ngắn. Khi các điều này sẽ xảy ra, Trái đất sẽ hỗn loạn hoàn toàn; thế giới sẽ phó mình cho các đam mê gian ác của nó. Nước Pháp đã làm ung thối vũ trụ, một ngày kia nó sẽ bị phạt. Đức tin sẽ tắt tại Pháp. Một phần ba nước Pháp sẽ không thực hành hay hầu như không thực hành tôn giáo nữa. Nửa kia sẽ thực hành nhưng không thực hành tốt…

** Trước khi điều này đến sẽ xảy ra trong Giáo Hội nhiều nhiễu nhương và ít lâu sau Đức Giáo Hoàng sẽ bị bách hại. ĐTC sẽ bị bách hại từ mọi phía, người ta sẽ bắn vào ngài, người ta muốn ngài chết, nhưng chúng sẽ không thể làm gì được ngài. Người kế vị ngài là một Giáo Hoàng không ai chờ đợi. Các linh mục tu sĩ và các tôi tớ đích thật của Con Mẹ sẽ bị bách hại và nhiều người sẽ chết vì niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Sẽ có một nạn đói lớn xảy ra vào thời đó.

Sau khi mọi điều này sẽ xảy ra, nhiều người sẽ nhận biết bàn tay của Thiên Chúa trên họ và sẽ hoán cải và sám hối các tội lỗi của mình. Tiếp theo các quốc gia sẽ hoán cải và đức tin sẽ được thắp sáng trở lại khắp nơi. Một vùng lớn của miền Bắc Âu châu, giờ đây là tin lành, sẽ hoán cải và theo gương vùng này các quốc gia khác của thế giới cũng sẽ hoán cải. Ít lâu sau đó sẽ có hoà bình lớn, nhưng nó không kéo dài. Một con quái vật sẽ đến phá phách nó. Một vị vua lớn sẽ lên ngôi và sẽ cai trị vài năm. Tôn giáo sẽ nở hoa và lan tràn trên toàn trái đất và sẽ có sự phì nhiêu lớn, thế giời hài lòng vì không thiếu thốn gì, sẽ lại bắt đầu các vô trật tự và sẽ bỏ Thiên Chúa và lại ôm ấp các đam mê tội phạm của nó.

Cũng sẽ có các thừa tác viên của Thiên Chúa và các hiền thê của Chúa Giêsu Kitô phó mình cho các vô trật tự  và đây sẽ là điều kinh khủng, sau cùng một hoả ngục sẽ cai trị trên toàn Trái đất; khi đó Tên Phản Kitô sẽ sinh ra từ một tôn giáo, nhưng khốn cho tôn giáo đó: nhiều người sẽ tin vào nó bởi vì nó nói nó từ trời đến; thời gian không còn xa lắm, sẽ không qua hai lần 50 năm.”

Linh mục Livio Fanzaga viết về biến cố Đức Mẹ hiện ra như sau: “Một cách tự phát các giọt nước mắt của Đức Bà La Salette khiến tôi so sánh chúng với mồ hôi máu của Chúa Kitô trong vườn Giệtsêmani. Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta và vì thế Ngài đã cho thấy rõ tình yêu vô biên của Ngài – nhưng tình yêu ấy không được hiểu biết, không được tiếp nhận lại còn bị khước từ… Vì thế các giọt nước mắt của Đức Bà cho chúng ta thấy việc không đáp trả lại ơn thánh, nghĩa là sự khước từ chống lại lòng thương của Thiên Chúa. Đó là các nước mắt đớn đau Mẹ đổ ra trên chúng ta, trên các con cái Mẹ đang sống trong tội lỗi, bởi vì Mẹ Maria không thể cưỡng bách chúng ta hoán cải, nhưng chỉ có thể diễn tả nỗi cay đắng đối với việc khước từ món quà tình yêu”.

TMH 521

Linh Tiến Khải








All the contents on this site are copyrighted ©.