Tôi xin chọn Người (kỳ 3): Cám dỗ-Thử thách của niềm tin
Các bạn thân mến, cuộc sống của A-đam và E-và nơi vườn Địa Đàng năm xưa thật yên bình
biết bao. Ông bà chẳng cần phải ra công cày cấy hay làm lụng vất vả vì mọi nhu cầu
của ông bà đều được Thiên Chúa đáp ứng. Những tưởng cuộc sống như mơ ấy sẽ mãi êm
đềm trôi như dòng sông phẳng lặng và hiền hòa. Nào ngờ có ngày giông tố nổi lên cuốn
phăng mọi dự tính tốt lành của Thiên Chúa và đưa đẩy ông bà nguyên tổ vào tấn thảm
kịch bi thương. Tai họa đã ập xuống đầu con người và vận đổi sao dời khiến cho họ
bắt đầu phải long đong nơi dòng đời nghiệt ngã.
Kẻ đã gieo tai ương cho con
người là con rắn xảo quyệt và xấu xa. Thấy E-và dạo chơi trong vườn, rắn giả vờ thương
xót bà vì Thiên Chúa độc đoán cấm không được hái bất kỳ loại trái cây nào trong vườn.
Hết sức đơn sơ và ngây thơ, E-và đã nhiệt tình biện hộ bênh vực cho Thiên Chúa. Ngài
chỉ muốn ông bà đừng đụng vào cây biết lành biết dữ ở giữa vườn thôi vì ăn phải trái
cây đó sẽ phải chết. Chỉ chờ có thế, rắn trấn an bà trái cây ấy chẳng chết chóc gì
đâu và buông lời dèm pha rằng Thiên Chúa sợ ông bà sẽ ngang hành với mình nếu ăn được
trái cây ấy. Lời ngon ngọt của rắn đã làm bà dao động và lòng trí bà trỗi dậy bao
nỗi hoài nghi. Hóa ra Thiên Chúa chẳng thương yêu gì ông bà vì Ngài đâu muốn ông bà
ngang hàng với mình. Hóa ra Thiên Chúa chỉ lấy cái chết làm tấm bình phong để che
đậy cho ước muốn độc tôn của chính mình. Nếu Thiên Chúa đã bạc đãi với con người như
thế thì Ngài cũng chẳng thể trách bà làm trái lời mình được. Bà thà phụ Thiên Chúa
chứ nhất quyết chẳng để Thiên Chúa lừa dối mình. Bà đã ăn và quyến rũ A-đam cùng thưởng
thức với mình. Chẳng thấy được bằng Thiên Chúa, chỉ thấy ông bà xấu hổ vì nhận ra
nơi mình tham vọng muốn ngang hàng và độc lập với Thiên Chúa. Cãi lời Thiên Chúa nên
ông bà bị trục xuất ra khỏi Địa đàng và phải nai lưng kiếm ăn vất vả. Vất vả cả đời
rồi cả hai cũng phải bước qua ngưỡng cửa của cái chết chứ còn chẳng được phúc trường
sinh. Ông bà nguyên tổ đã chiều theo ước muốn xấu mà bất tuân và phản bội Thiên Chúa.
Họ đã bị cám dỗ và đã sa ngã.
Các bạn thân mến
Cám dỗ không buông
tha một ai và là thước đo lòng tin của ta vào Thiên Chúa. Có những cơn cám dỗ chợt
đến khơi gợi sự tò mò và kích thích ta hãy thử nếm trải nó lần đầu tiên. Ta không
mất trắng niềm tin vào Chúa nếu đồng thuận với cám dỗ loại này, nhưng ít nhiều niềm
tin đã bị sứt mẻ mặc dù sau sa ngã ta đã hối hận ăn năn. Sa chước cám dỗ ở hình thức
này cho thấy niềm tin của ta chưa thật kiên vững và cần dứt khoát hơn để nói không
với cám dỗ dù chỉ là thử một lần rồi thôi. Cám dỗ nào cũng đẹp và cũng hấp dẫn cả.
Có hối hận sau sa ngã lần đầu nhưng cảm giác khoan khoái mà cám dỗ mang lại sẽ đeo
đuổi ta mãi. Nó mời gọi ta hãy hưởng nếm lại cảm giác đó lần thứ hai rồi nhiều hơn
nữa, và cứ thế ta càng lún sâu vào vũng lầy của cám dỗ. Niềm tin trong trường hợp
này có nguy cơ bị xóa xổ nếu ta cứ tiếp tục trượt dài trong chước cám dỗ. Có đôi khi,
ta đã dùng hết sức mình để vượt thoát những cám dỗ thô thiển được một hai lần thì
ma quỷ cố làm ta nản lòng thối chí rằng nỗ lực làm gì cho mất công rồi ta lại ngựa
quen đường cũ mà thôi. Ta cần củng cố niềm tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình và
sẽ giúp mình vững vàng qua cám dỗ. Tựu trung lại, dù dưới dạng thức nào, cám dỗ đều
đẩy đưa ta đến những sự xấu xa và làm thui chột niềm tin của ta vào Thiên Chúa.
Ai
cũng bị cám dỗ nhưng không phải ai cũng sa ngã. Đức Giêsu là mẫu gương sống động
cho ta về kinh nghiệm vượt thoát này. Ngài cũng phải trải qua cám dỗ sau khi vào hoang
địa để tĩnh tâm 40 đêm ngày. Lần đó, Đức Giêsu đã nói không với cám dỗ vì Ngài hoàn
toàn tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa Cha. Ngay cả lúc mạng sống của mình như
mành chỉ treo chuông, nơi Vườn Dầu, Đức Giêsu cũng đã vâng lời Cha cho đến nỗi bằng
lòng chịu chết. Trên thập giá quỷ dữ đã dùng môi miệng của biết bao nhiêu người để
xúi dục Đức Giêsu phản bội Cha cho bằng được. Nhưng chúng đã thất bại hoàn toàn vì
lòng tin son sắt của Đức Giêsu vào Thiên Chúa Cha.
Bạn thân mến, ta không tránh
được cám dỗ nhưng thuận theo cám dỗ hay không là hoàn toàn do ta. Cám dỗ có đó không
phải để giăng bẫy con người nhưng là dịp để trắc nghiệm con người có vững tin vào
Thiên Chúa không. Có kinh qua cám dỗ mới biết tin thật hay giả vờ tin, tin mạnh hay
yếu tin. Niềm tin vào Thiên Chúa như E-và và A-đam chỉ cần ít lời dèm pha của con
rắn đã tan tành trong mây khói. Tin thật là phải tin cho đến hết hơi, cho đến trọn
đời như Đức Giêsu. Như thế, chính yếu không hệ tại cám dỗ có tồn tại hay không nhưng
tùy thuộc con người có niềm tin son sắt vào Thiên Chúa hay không? Lòng tin thật vững
vàng sẽ nâng đỡ ta nhẹ nhàng thoát khỏi cạm bẫy của mưu chước cám dỗ.