.. Ngay từ năm 7 tuổi - sau khi rước lễ lần đầu - tôi thường xuyên lãnh bí tích Giải
Tội. Cảm tưởng được gặp Chúa trong những lần xưng tội đầu tiên của thời niên thiếu
ghi đậm trong trí nhớ của tôi.
Cứ mỗi lần đến các lễ trọng, tôi lại dọn mình
đi xưng tội. Vào tòa giải tội, trước tấm lưới nhỏ bằng gỗ - trông thật bí ẩn huyền
nhiệm - tôi cung kính quỳ xuống. Tôi nghe một tiếng nói phát ra từ bên kia tấm lưới,
mà tôi biết rõ là của vị Linh Mục, Đại Diện Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Tiếng nói chúc lành
cho tôi và tôi bắt đầu cuộc xưng tội. Khung cảnh của tòa giải tội như tỏa ra một bầu
khí linh thiêng huyền nhiệm lạ lùng, khó diễn tả được, nhất là trong tuổi thơ của
một cậu bé lên 8 lên 9. Dĩ nhiên, nhờ học giáo lý, tôi biết rõ ràng rằng sau mỗi lần
xưng tội thì tất cả tội lỗi của tôi được tẩy sạch và tôi được Chúa tha thứ.
Nhưng những hiểu biết và tâm tình tôi dành cho Bí Tích Giải Tội chỉ dừng lại ở điểm
vừa nói. Phải chờ đến 10 năm sau, khi bước vào tuổi trưởng thành, tôi mới bắt đầu
hiểu hơn về Tình Yêu bao la THIÊN CHÚA dành cho chúng ta qua bí tích Hòa Giải.
Một ngày, nhân chuyến hành hương Lộ Đức, tôi được may mắn xưng tội với một vị Linh
Mục thánh thiện. Cha giúp tôi đi xa hơn trong ý nghĩa của bí tích Giải Tội. Cha nói:
- Xưng tội không chỉ giới hạn trong hành động của hối nhân tiến về tòa cáo giải và
xưng thú mọi tội lỗi với vị Linh Mục. Việc xưng tội còn hướng các tín hữu đến các
tâm tình cao đẹp hơn nhiều. Đó là cảm nhận được tình yêu bao la, lòng từ bi nhân hậu
vô biên của THIÊN CHÚA đối với con người.
Kể từ sau lần xưng tội đáng ghi
nhớ đó, tôi cảm thấy nảy sinh trong tôi một tâm tình mới lạ, như cảm nhận một hồng
ân lớn lao Chúa chuyển vào linh hồn tôi. Cuộc sống của tôi cũng bắt đầu thay đổi.
Tôi ý thức rõ ràng và sâu xa hơn sự hiện diện của Chúa ngay chính trong cuộc đời tôi.
Một sự hiện diện thân mật và gần gũi, chứ không phải mơ hồ và xa vời.
Tôi
cũng cầu nguyện sốt sắng và tha thiết hơn. Tôi thực sự bày tỏ mọi tâm tình của tôi
với Đức Chúa GIÊSU KITÔ, người Bạn Chí Thân Dấu Ái của tôi. Nhờ sống tình thân mật
với Đức Chúa GIÊSU, tôi được ơn biết rõ tôi hơn, với những bất toàn và khốn khổ. Tuy
nhiên, biết rõ mình không phải để thất vọng hoặc khép kín vào chính mình nhưng là
để bày tỏ những khốn khổ, yếu hèn và sự bé nhỏ của tôi ra cho Chúa và xin Chúa thương
chữa lành.
Trước khi khám phá ra lòng từ bi vô biên của Đức Chúa GIÊSU KITÔ,
tôi thường giữ riêng cho mình một góc nhỏ trong trái tim, nơi cất dấu những vết thương
lòng, những vụng dại của tuổi trẻ, của quá khứ. Nhưng từ khi khám phá ra lòng nhân
hậu bao la của Đức Chúa GIÊSU, tôi nhìn những vết thương của quá khứ với đôi mắt mới,
đôi mắt của chính Đức Chúa GIÊSU đầy yêu thương nhìn tôi. Và lòng tôi chan hòa một
nỗi niềm hy vọng trìu mến. Tôi như ngụp lặn trong lòng từ bi của Chúa. Thật không
thể nào diễn tả cho hết lòng từ bi của Đức Chúa GIÊSU KITÔ đối với tôi.
Đức
Chúa GIÊSU là THIÊN CHÚA giàu lòng nhẫn nhục, luôn luôn đợi chờ. Ngài không bao giờ
ép buộc ai theo Ngài. Trái lại Ngài tôn trọng tự do của con người. Nếu chúng ta biết
mở rộng cửa lòng đón nhận Chúa thì tức khắc Chúa sẽ đến và ngự vào lòng. Tất cả tùy
thuộc vào tự do chọn lựa của con người ..
Và trong việc chọn lựa này, có một
người luôn sẵn sàng ra tay giúp đỡ. Người đó là Đức Trinh Nữ Vương MARIA Hiền Mẫu
Thiên Quốc của loài người. Các tín hữu Công Giáo đã tặng Đức Mẹ nhiều danh hiệu như
”Đấng An Ủi kẻ khốn cùng - Nơi Nương ẩn của tội nhân”. Đức Mẹ MARIA là Đấng Vẹn Tuyền
đến độ Đức Mẹ luôn luôn muốn cho loài người, con cái của Mẹ, cũng được hưởng nếm sự
trinh khiết của Mẹ và như Mẹ. Do đó đừng bao giờ quên cầu khẩn cùng Đức Mẹ. Đức Mẹ
sẽ cầm tay đưa chúng ta đến với vị Linh Mục của Đức Chúa GIÊSU, để chúng ta kín múc
tình yêu thương của THIÊN CHÚA.
(Chứng từ của Vincent, một thanh niên 25
tuổi người Pháp)
... Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU phán: ”Thầy chính
là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Người làm thuê, vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên
khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên
tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Thầy chính
là Mục Tử nhân lành. Thầy biết chiên của Thầy, và chiên của Thầy biết Thầy, như THIÊN
CHÚA CHA biết Thầy, và Thầy biết THIÊN CHÚA CHA, và Thầy hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên”(Gioan 10,11-15).
(Marie-Michel, ”Infinie sa Tendresse”, Le Sarment FAYARD, 1993, trang 38-43)