Hoạt động của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV trong Đệ Nhất Thế Chiến
Phỏng vấn Linh Mục Massimo Mancini giáo sư Lịch sử Giáo Hội phân khoa Thần Học Triveneto
Venezia bắc Italia
Trong các tuần tới đây Âu châu tưởng niệm 100 năm Đệ Nhất
Thế Chiến bùng nổ, một cuộc chiến đã khiến cho 20 triệu người thiệt mạng và tàn khốc
hơn tất cả mọi cuộc chiến trước đó, vì có sư tham dự của nhiều nước trên thế giới
và việc sử dụng các vũ khí mới chưa từng có như máy bay, xe tăng, tầu ngầm, và cả
vũ khí hóa học nữa.
Năm 1914 tình hình Âu châu căng thẳng vì các đối nghịch
giữa các cường quốc lớn Pháp, Đức và Anh. Hai nước Pháp và Anh có nhiều thuộc địa
rộng lớn cung cấp các nguyên liệu rẻ tiền và hầu như vô tận. Đức mặc dù có nền kinh
tế phát triển vượt Pháp và bắt kịp Anh quốc, nhưng có ít thuộc địa, nên không có các
nguồn tài nguyên phong phú và có thị trường quốc tế nhỏ hơn so với Pháp và Anh. Pháp
và Anh muốn ngăn chặn nền kinh tế bành trướng đang lên của Đức. Ngoài sự cạnh tranh
kinh tế này, còn có sự đua tranh chính trị nữa. Các cường quốc Âu châu muốn kiểm soát
vùng Balcan và biển Địa Trung Hải, nhất là người Nga và người Áo muốn lợi dụng sự
yếu kém của đế quốc Ottoman để bành trướng bằng cách chinh phục các vùng đất làm thành
bán đảo Balcan. Có một yếu tố khác nữa tạo ra các căng thẳng lớn giữa các nước đó
là khuynh hướng quốc gia, đặc biệt là của Pháp vì Pháp muốn chiếm các vùng đất Alsace
và Lorraine đã bị mất trong chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870-1871. Italia thì muốn
chiếm lại miền Trento và Trieste.
Chính trong tình hình đua tranh căng thẳng
đó Trưởng quận công Francesco Ferdinando, người sẽ kế vị vua Áo, và vợ bị một sinh
viện người Serbi ám sát ngày 28 tháng 6 năm 1914 tại Sarajevo. Vụ ám sát này đã là
cớ khiến cho Đệ Nhất Thế Chiến bùng nổ giữa các đế quốc vùng trung Âu châu là Đức,
Áo, Hungari, Ottoman, và các cường quốc của Thỏa hiệp tay ba gồm Pháp, Anh và Nga.
Đức mơ thành lập một nước lớn bao gồm tất cả các vùng nói tiếng Đức. Trong khi Nga
ước muốn hiệp nhất tất cả các dân tôc nói tiếng Slave.
Thế là Áo tuyến chiến
với Serbia, vì coi Serbia là nơi tiếp đón mọi lực lượng Slave đòi độc lập, và muốn
trừng phạt vùng đất này một lần cho luôn mãi. Chỉ nội trong mấy ngày nhiều quốc gia
khác nhau tham chiến. Bên cạnh Đức, Áo là Thổ Nhỉ Kỳ, Bulgaria, Nhật Bản và Rumania.
Các người đảng xã hội và các tín hữu công giáo chủ trương hòa bình, nhưng lập trường
của họ không được lắng nghe. Các phe lâm chiến cũng không chú ý đến các lời cảnh cáo
rất nghiêm ngặt của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV coi chiến tranh là hậu qủa của ích
kỷ, của chủ thuyết duỵ vật và việc thiếu các giá trị luân lý và tinh thần.
Ban đầu người ta chỉ nghĩ tới một cuộc chiến kết thúc nhanh chóng, nhưng mọi tính
toán đều sai và cuộc chiến biến thành ”chiến tranh hầm trú” kéo dài hết năm này sang
năm khác. Binh sĩ đào các đường hầm dài hàng trăm cây số, với các bãi mìn và hàng
rào kẽm gai, rồi sống và di chuyển trong đó để cầm chân nhau. Mặt trận trải dài hàng
ngàn cây số giữa hai bên và cần binh sĩ tới độ phải tổng động viên đàn ông con trai.
Tình trạng này bắt buộc các phụ nữ phải làm việc trong các nhà máy sản xuất quân trang
quân dụng. Tuy có các trận đánh đẫm máu nhưng không bên nào tiến được. Người ta đã
phải dùng tới máy bay oanh tạc các đường hầm từ trên cao, cũng như xe tăng, hơi ngạt
và súng phun lửa.
Phía ngoài biển hải quân Anh phong tỏa không cho quân Đức
tiếp viện. Quân Đức bắt đầu sử dụng các tầu ngầm và nạn nhân thường là các tầu của
Hoa Kỳ tiếp tế cho Anh quốc.
Năm 1917 các cuộc tàn sát thê thảm bị phơi bầy
trước mắt mọi người. Mặc dù Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV liên tục kêu gọi ngưng chiến
và dịnh nghĩa nhân loại đáng xấu hổ, chiến tranh vẫn tiếp diễn khiến cho các dân tộc
Âu châu mệt mỏi vì đói khát, hàng ngàn người tị nạn về nhà với thân thể què cụt. Không
còn nông dân để cầy cấy, cũng không còn công nhân trong các hãng xưởng, tất cả đều
do phụ nữ, trẻ em và người già đảm trách.
Mùa xuân năm 1917 nhiều vụ nổi dậy
đã bắt buộc Nga hoàng Nicola II phải từ chức, hàng triệu binh sĩ Nga mệt nỏi đói khát
bỏ chiến tuyến về nhà. Đảng Bônxêvích của Lenin lên nắm quyền, và ký thỏa hiệp đình
chiến và hòa bình với Đức. Nga ra khỏi chiến tranh nhưng mất Ba Lan, Estonia, Lettonia,
Lituania và Phần Lan. Được rảnh tay, Áo và Đức dồn toàn lực đánh Pháp, Anh và Italia.
Vụ tầu xuyên đại tây dương Lusitania bị quân Đức đánh chìm làm cho 124 người Mỹ bị
chết, khiến cho vào mùa xuân năm 1917 Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức. Cùng với các binh
sĩ Mỹ là các đồ tiếp tế, quân trang quân dụng và thực phẩm. Trên bình diện quân sự
tuy không tiến xa hơn, nhưng Đức và Áo xem ra còn vững. Nhưng trên bình diện kinh
tế thì vô cùng thảm hại, vì đồng ruộng bị bỏ hoang không có người canh tác, thiếu
nhiên liệu, thực phẩm, cả đến phần ăn của binh sĩ cũng bị hạn chế. Sau các nỗ lực
cuối cùng tấn công mà không chiến thắng, tháng 11 năm 1918 Áo ký thỏa hiệp ngưng bắn
với Italia, và Đức xin cầu hòa. Các vụ nổi loạn của dân chúng đã khiến cho hai hoàng
đế Áo và Đức phải từ chức.
Chính trong bối cảnh chiến tranh trên đây ngày
mùng 3 tháng 9 năm 1914 Đức Hồng Y Giacomo Della Chiesa, Tổng Giám Mục Bologna, được
bầu làm Giáo Hoàng, lấy tên là Biển Đức XV. Vụ bầu cử đã diễn ra giữa tiếng bom đạn
của Đệ Nhất Thế Chiến, mà Đức tân Giáo Hoàng định nghĩa là một ”tai ương vô ích”.
Trong hơn 7 năm làm Giáo Hoàng Đức Thánh Cha Biển Đức XV tìm cách ngăn chặn cuộc xung
khắc, hăng say tái phát động các tương quan với miền nam thế giới và Viễn Đông, công
bố Bộ giáo luật mới, giảm các giọng điệu của phong trào duy tân tiến, tái tổ chức
việc truyền giáo, và ủng hộ tín hữu công giáo trong cuộc sống chính trị. Nhưng hoạt
động lớn nhất của ngài là hoạt động cho hòa bình.
Sau đậy chúng tôi xin gửi
tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Massimo Mancini, giáo sư Lịch sử Giáo
Hội phân khoa Thần Học Triveneto Venezia bắc Italia, về hoạt động của Đức Thánh Cha
Biển Đức XV cho hòa bình.
Hỏi: Thưa cha Mancini, trong lịch sử Giáo Hội
thuộc thế kỷ XX gương mặt của Đức Thánh Cha Biển Đức XV xem ra là một gương mặt lu
mờ, ít đựơc biết tới, có đúng thế không?
Đáp: Đức Biển Đức XV là một vị
Giáo Hoàng đã sống trong các hoàn cảnh khó khăn, khi Tòa Thánh chưa được thừa nhận
trên bình diện quốc tế, nhưng ngài đã thành công trong việc là một đối tác có giá
trị và hữu hiệu bên cạnh các quốc gia hùng mạnh để đi tới hòa bình. Cả khi hòa bình
đã chỉ tới sau bốn năm chiến tranh. Đức Giáo Hoàng Biển Đức XV mời gọi mọi dân tộc
lâm chiến làm hòa với nhau. Ngài đã không bênh vực bên nào hết, và đây là một khía
cạnh sẽ bị nhiều người chỉ trích. Nhưng Đức Biển Đức XV biết rằng nhiệm vụ của ngài
là cha của tất cả mọi kitô hữu, là đưa mọi người tới hòa bình, mà không ủng hộ nước
nào cả. Và điều này đã không được người ta hiểu.
Hỏi: Đã không chỉ
có các lời kêu gọi hòa bình, nhưng nhờ kinh có nghiệm ngoại giao Đức Giáo Hoàng
Biển Đức XV tìm mọi cách để giải quyết các xung khắc, có đúng
thế không thưa cha?
Đáp: Đúng thế, một mặt ngài lo cống hiến sự trợ giúp
cho tất cả những người bị thiệt hại bởi chiến tranh chừng nào có thể. Mặt khác sau
ba năm chiến tranh đẫm máu và thê thảm Đức Biển Đức XV đã đưa ra một đề nghị và gửi
một văn thư ngoại giao cho tất cả các cường quốc lâm chiến, bằng cách chỉ cbo họ thấy
các giải pháp cho các vấn đề cụ thể. Nhưng lời đề nghị cụ thể của ngài bị các cường
quốc khước từ, ngoại trừ vua Carlo I của nhà Asburgo. Chắc chắn đó đã không phải là
một chiến thắng, nhưng là một thời điểm tiên tri lớn từ phía Đức Giáo Hoàng.
Hỏi: Liên quan tới công tác truyền giáo, Đức Biển Đức XV cũng đã để
lại dấu vết hoạt động của ngài, có đúng thế không thưa giáo sư?
Đáp: Vâng,
với Tông thư ”Maximum illud” công bố ngày 30 tháng 11 năm 1919 Đức Giáo Hoàng Biển
Đức XV đã trao ban cho công tác truyền giáo một sức đẩy mới, băng cách tìm thực hiện
chương trình của một hàng giáo sĩ địa phương. Như thế các giám mục, linh mục là những
người dân bản địa, một việc truyền giáo không gắn liền với chế độ thực dân của các
cường quốc âu châu, nhưng để cho nổi bật lên các tài gnuyên và nhân lực của các dân
tộc địa phương cần được rao truyền Tin Mừng, cho một sứ điệp thực sự tin mừng.
Hỏi: Đức Biển Đức XV đã là một vị Giáo Hoàng canh tân nhìn xa thấy rộng
liên quan tới cả sự dấn thân của tín hữu công giáo trong lãnh vực chính trị nữa, có
đúng thế không thưa cha?
Đáp: Vâng, Đức Giáo Hoàng Biển Đức
XV cũng là một người rất chú ý tới sự hiện diện của tín hữu công giáo trong lãnh vực
chính trị tại các nước khác nhau. Trước tiên là tại Italia ngài đã ủng hộ việc thành
lập Đảng nhân dân mới Italia của linh mục Luigi Turzo. Đây là đảng phái chính trị
đầu tiên tại Italia có nguồn hứng công giáo. Dưới triều đại của Đức Biển Đức XV cũng
đã có các thương thảo ngầm để đem lại giải pháp cho ”Vần đế của Roma” đã kéo dài hàng
chục năm trời và là nguyên do xung khắc giữa Italia và Tòa Thánh.