... Ơn gọi chiêm niệm của Chị Maryvonne nữ tu Kín Cát-Minh thuộc đan viện Morlaix
ở miền cực Tây nước Pháp.
Khởi đầu ơn gọi, tôi có một kinh nghiệm nội tâm
sâu xa với THIÊN CHÚA, Đấng chiếm ngự nơi tôi từ rất lâu và thúc đẩy tôi xem xét cuộc
đời tôi như một hồng ân đến từ THIÊN CHÚA. Tôi kinh nghiệm rằng THIÊN CHÚA yêu tôi
thật thẳm sâu, và như thế, để đáp lại, tôi muốn dâng Ngài trọn cuộc đời tôi.
Nhà Kín Morlaix là nơi tôi biết rằng các nữ tu sống trong sự gần gũi và trong sự hiện
diện của THIÊN CHÚA. Ngoài ra nơi Nhà Kín Cát-Minh còn có ơn gọi truyền giáo nữa.
Chính vì có kinh nghiệm về THIÊN CHÚA, Đấng đổ tràn niềm vui và sức sống nơi tôi mà
tôi chỉ có ước muốn duy nhất là chia sẻ kinh nghiệm này cho tha nhân để giúp tha nhân
khám phá ra THIÊN CHÚA! Nhưng tôi lại cảm thấy mình không có ơn gọi truyền giáo, ra
đi trên vạn nẻo đường để công bố và loan báo Tin Mừng của Phúc Âm ..
Đến đây
thì nhờ chứng tá của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU (1873-1897) hướng tôi tiến về
ơn gọi Kín Cát-Minh, bởi vì thánh nữ được tuyên phong làm Quan Thầy các xứ truyền
giáo. Thế là tôi tự nhủ: ”Nếu nơi Đan Viện tôi cũng có thể làm nhà thừa sai bằng lời
cầu nguyện, thì, tôi sẽ vào Nhà Kín Cát-Minh!”.
Thật vậy, trong Đan Viện,
hàng ngày chúng tôi đều đưa vào lời cầu nguyện của chúng tôi trọn niềm đau nỗi khổ
của thế giới hiện đại, các cuộc săn tìm ý nghĩa cuộc sống của rất đông người và các
khó khăn gặp phải vì cái biến chuyển của thế giới ngày nay..
Chúng tôi cũng
mở rộng cửa Đan Viện đón tiếp những ai muốn đến đây cần một thời gian nghỉ ngơi tịnh
niệm trong vài ngày. Trải qua các điều này. quả thật các Nữ Tu Kín Cát-Minh chúng
tôi cảm thấy mình là các nhà truyền giáo!
... Lộ trình ơn gọi chiêm niệm thứ
hai không trơn-tru như của Chị Maryvonne. Xin nhường lời cho Chị Marie-David, nữ tu
Kín Clarisse hiện sống tại Đan Viện Millau ở miền Nam nước Pháp.
Ơn gọi Clarisse
của tôi giống như một cuộc ”tái hoán cải”. Thật vậy, chào đời tại thủ đô Paris, tôi
được rửa tội nhưng rất nhanh sau đó tôi dẹp tôn giáo qua một bên. Khi biến cố xôn
xao giao động năm 1968 diễn ra - đang ở lứa tuổi 20 - tôi liền băn khoăn đặt nhiều
vấn nạn về cuộc sống và về đau khổ. Tuy nhiên tôi vẫn tiếp tục - sống tách xa Giáo
Hội Công Giáo - với nghề thư ký với bạn bè và với các cuộc du hành đây đó. Mặc dầu
có cuộc sống đong đầy sinh hoạt như thế tôi vẫn cảm thấy không thỏa mãn. Sau đó nhờ
xem cuốn phim Phanxicô và hành trình mặt trời của nhà đạo diễn người Ý Franco Zeffirelli,
tôi mới bắt đầu đặt lại vấn nạn cuộc sống tâm linh.
Tôi liền quyết định ra
đi tìm kiếm giải đáp cho các vấn nạn hiện sinh nơi một cộng đoàn được gợi hứng từ
chủ trương bất bạo động của ông Mahatma Gandhi (1869-1948) người Ấn Độ. Thế nhưng,
chính trong khi làm cuộc linh thao 30 ngày của thánh Ignazio thành Loyola mà tôi hiểu
rằng: THIÊN CHÚA muốn tôi dâng hiến cuộc đời tôi cho Ngài. Tôi thực sự tìm thấy điều
tôi mất công dong duổi tìm kiếm trong bao năm trời!
Tôi tiếp tục đi trên con
đường này và tiến về Assisi với mấy bạn trẻ và vài tu sĩ Phanxicô. Với kinh nghiệm
mới mẻ này tôi khám phá ra rằng chính trong gia đình Thánh Phanxicô và Thánh nữ Clara
mà tôi phải gia nhập. Nhưng ở đâu thì tôi hoàn toàn mù tịt!
THIÊN CHÚA quan
phòng xếp đặt, vào ngày 4-10-1977 - lễ thánh Phanxicô Assisi - tôi đến Đan Viện các
nữ tu Kín Clarisse ở Béziers, miền Nam nước Pháp. Sau đó tôi xin gia nhập Đan Viện
và trở thành nữ tu Kín Clarisse cho đến hôm nay. Con đường THIÊN CHÚA dẫn dắt thật
diệu kỳ và muôn vàn cảm tạ hồng ân bao la của THIÊN CHÚA!
... ”Lạy THIÊN
CHÚA, phần con đây, vẫn một bề trông cậy, và gia tăng lời tán tụng Ngài. Miệng con
công bố Ngài chính trực, suốt ngày tường thuật ơn cứu độ Ngài ban, ơn của Ngài, nhiều
khôn xiết kể! Con thuật lại bao chiến công của Chúa, nhắc nhở rằng: chỉ mình
Ngài chính trực công minh .. Lạy THIÊN CHÚA, đức chính trực của Ngài
cao vời vợi. Ngài đã làm những việc lớn lao, lạy THIÊN CHÚA, nào ai sánh tày!
Ngài đã bắt con nếm mùi tân khổ, chính Ngài sẽ cho con được hoàn
sinh và kéo ra khỏi vực sâu lòng đất. Phần vinh hoa, Ngài sẽ ban nhiều,
và trở lại vỗ về an ủi. Lạy THIÊN CHÚA, con dạo khúc hạc cầm tạ ơn Ngài thành tín.
Gảy cung tỳ bà, con ngâm vịnh kính dâng Ngài, lạy Đức Thánh của Israel. Miệng con
sẽ reo hò theo nhịp đàn mừng Chúa. Hồn con nữa, hồn con Ngài cứu chuộc,
cũng vui sướng hò reo. Và suốt ngày con nhẩm đi nhắc lại: quả thật Ngài
công minh!”(Thánh Vịnh 71(70) 14-17+19-24).
(”Église en Rouergue”,
Bulletin religieux du diocèse de Rodez et de Vabres, No 21, 22 Décembre 2013, trang
9 / ”Église en Finistère”, Quimper et Léon, No 200, 30 Janvier 2014, trang 16)