Nam Phi kỷ niệm 20 năm chấm dứt chế độ kỳ thị chủng tộc
Phỏng vấn Đức Hồng Y Wilfrid Fox Napier, Tổng Giám Mục Durban
Cách
đây 20 năm ngày 27 tháng 4 năm 1994 nhân dân Nam Phi đã hân hoan tham dự cuộc bầu
cử tự do dân chủ đầu tiên trong lịch sử của mình, chấm dứt chế độ kỳ thị phân biệt
chủng tộc bất công và hổ nhục kéo dài nửa thế kỷ. Ông Nelson Mandla, người tù của
các chính quyền kỳ thị chủng tộc, đã được bầu làm tổng thống dân cử đầu tiên của một
Nam Phi mới.
Cộng hòa Nam Phi rộng gần 1 triệu 220 ngàn cây số vuông, có hơn
50 triệu dân, bao gồm nhiều nhóm chủng tộc khác nhau. Người da đen Bantu chiếm 73%
và chia thành 9 nhóm: Zulu 23%, Xhosa 18%, Sotho 16%, Tswana 7%, Tsonga 4%, Swazi
2,5%, Venda 2%, Ndebele 1,5% và Pedi 1%. Người da trắng chiếm 13% tổng số dân và chia
thành ba nhóm: Boeri hay Afrikaner 6,5%, Anglosasson 5,5%, nhóm thứ ba gồm những người
gốc Bồ Đào Nha, Đức và Italia chiếm 1%. Nhóm gốc Á châu chiếm 3% tổng số dân và bao
gồm hai nhóm: Ấn Độ 2,5% và Tàu 0,5%. Nhóm lai giống chiếm 9% tổng số dân. Người Boscimani
và Ottentotti chiếm 0,1%.
Trên bình diện tôn giáo 35% người dân Nam Phi theo
Tin lành. Số tín hữu Công giáo được 10%, tín hữu Anh giáo 10%. Tín hữu Methodist,
Luther và các Giáo Hội Kitô khác chiếm 30%. Hồi giáo chiếm 1,5%, Ấn giáo chiếm 1,2%,
Do thái 0,3%, Phật giáo và đạo thờ vật linh 12%, người vô thần hay vô ngộ chiếm 14,8%.
Về ngôn ngữ người dân Nam Phi nói 11 thứ tiếng khác nhau.
Trên bình diện nhân
chủng Nam Phi, nhất là vùng Transvaal, chắc hẳn là chiếc nôi của nhân loại, vì các
nhà khảo cổ đã tìm thấy dấu vết của người Australopitechi, Homo habilis, Homo erectus,
và Homo sapiens.
Cách đây 10.000 năm Nam Phi có hai nhóm dân du mục là người
Boscimani và Khoikhoi hay Ottentotti sinh sống về nghề săn bắn và hái trái. Tiếp đến
giữa thế kỷ thứ III-V có thêm các nhóm Bantu.
Năm 1487 một nhà thám hiểm Bồ
Đào Nha vượt ”Mũi hy vọng” mở đường biển sang Ấn Độ. Nhưng chính các thương gia Hòa
Lan đã thành lập cứ điểm thương mại sau này là thành phố Cap. Và cũng từ đó phong
trào thuộc địa gồm người của vài nước Âu châu bắt đầu, rồi trở thành một cộng đoàn
tự trị phát triển một nền văn hóa và một thứ tiếng nói riêng là Afrikaans. Họ cũng
được gọi là người Boeri trong tiếng Hòa Lan có nghĩa là ”nông dân”.
Vào thế
kỷ XVIII người Anh chiếm thành phố Cap. Vào giữa thế kỷ XIX người Boeri bị người Anh
áp bức đi cư về mạn bắc và thành lập các cộng hòa Boeri nhỏ. Cuối thế kỷ XIX và trong
thế kỷ XX đã xảy ra một loạt các trận đụng độ đẫm máu giữa người Boeri được chủng
tộc Zulu hộ thuẫn và người Anh được hai nhóm Xhosa và Swasi yểm trợ. Phe Anh chiến
thắng, và năm 1902 họ hiệp nhất mọi miền Nam Phi, rồi năm 1910 trở thành Liên Hiệp
Nam Phi.
Sau Đệ Nhi Thế Chiến đảng Quốc Gia thắng cử lên cầm quyền và bắt
đầu thi hành chế độ Apartheid kỳ thị phân biệt chủng tộc, cấm người da đen không được
theo học các trường dành cho người da trắng, cũng như lui tới tất cả mọi nơi dành
cho các sinh hoat của người da trắng. Chính quyền da trắng kỳ thị Nam Phi thành lập
các vùng gọi là Bantustan, để cô lập hóa người da đen. Các vùng này chiếm 13% tổng
số diện tích Nam Phi. Những người da đen tiếp tục sống trong các vùng của người da
trắng, khoảng 50% tất cả, từ từ mất các quyền dân sự. Chính sách Apartheid kỳ thị
này khiến cho Liên Hiệp Quốc năm 1973 đã phải tuyên bố nó là tội phạm chống lại nhân
loại. Nhưng các nghị quyết cấm vận kinh tế từ năm 1962 chống lại Nam Phi đã không
có kết qủa, vì luôn luôn bị Hoa Kỳ bỏ phiếu chống. Lý do vì Nam Phi cung cấp Uranium
và nhiều quặng mỏ khác cho Hoa Kỳ. Chế độ kỳ thị chủng tộc kèo dài mãi cho đến năm
1991, khi chính phủ của tổng thống Frederik de Klerk bắt đầu chương trình cải tổ quốc
gia, hủy bỏ chế độ kỳ thị, trả tự do cho ông Nelson Mandela thuộc đảng Quốc Đại, và
mời ông tham gia trong chính quyền. Ngày 17 tháng 4 năm 1994 trong cuộc tổng tuyển
cử tự do dân chủ đầu tiên ông Nelson Mandela đã được bầu làm tổng thống Nam Phi.
Tuy Nam Phi rất giầu tài nguyên nhưng đa số dân, đặc biệt người da đen, vẫn phải sống
trong cảnh nghèo túng, không có điện nước, và cũng chưa được hưởng các săn sóc y tế
giáo dục đúng mức phải có. Dân nghèo sống trong các vùng ngoại ô vẫn chưa là các công
dân với mọi quyền của họ.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn
một số nhận định của Đức Hồng Y Wilfrid Fox Napier, Tổng Giám Mục Durban, về biến
cố đáng ghi nhớ này.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y nghĩ gì về
biến cố kỷ niệm lịch sử này?
Đáp: Đó đã là một thời điểm đặc biệt
đối với chúng tôi. ”Phi châu tốt đẹp hơn” đã là kiểu chuyển tiếp xảy ra tại Nam Phi.
Cách thế duy nhất trong đó tôi có thể nghĩ tới chúng tôi đó là ”Phi châu tốt đẹp hơn”.
Nam Phi là quốc gia duy nhất, nơi người ta chờ đợi sự thay đổi từ một chế độ sang
một chế độ khác xảy ra trong vất vả mệt nhọc, nhưng lại là nơi việc chuyển tiếp xảy
ra một cách nhẹ nhàng nhất. Và chúng tôi biết ơn Thiên Chúa, bởi vì tôi biết rằng
có rất nhiều người dân thường đã cầu nguyện, cách riêng trong ngày thứ năm. Các phụ
nữ đã chọn ngày thứ năm như ngày cầu nguyện cho hòa bình tại Nam Phi. Và tôi cho rằng
chính nhờ các lời cầu nguyện ấy mà sự thay đổi đã xảy ra một cách êm thắm như vậy.
Hỏi: Ngày nay 20 năm sau các thay đổi ấy, đâu là các niềm hy vọng Đức Hồng
Y có đối với các cuộc bầu cử tới đây?
Đáp: Tôi hy vọng rằng người
dân, trong một cách thức nào đó, đã trưởng thành khá để biết rằng lá phiếu của họ
là lá phiếu bầu kín. Nó qúy báu và tùy họ muốn bỏ phiếu cho ai thì bỏ. Họ không được
để cho mình bị đe dọa bởi những người nói: ”Một cách nào đó thế nào chúng tôi sẽ biết
qúy vị bỏ phiếu cho ai”. Hy vọng thứ hai của tôi là những người phải bỏ phiếu làm
điều đó không phải vì những lý do truyền thống - ”Tôi đã luôn luôn bỏ phiếu cho đảng
này” - nhưng phải tự hỏi ”Cái gì sẽ duy trì được công ích nhất và một cách hữu hiệu
nhất?” Đây phải là tiêu chuẩn mà người đi bầu phải theo, khi họ bỏ phiều.
Hỏi: Đức Hồng Y đã về Roma để viếng mộ hai thánh Phêrô Phaolo và thăm
Tòa Thánh cách đây ít ngày. Đức Hồng Y đem theo những gì trong
các lời của Đức Thánh Cha, sau khi gặp gỡ ngài?
Đáp:
Tôi nghĩ là chúng tôi phải sao chụp toàn văn bản và phân phát cho tất cả mọi người
để tất cả mọi người đều biết những gì Đức Thánh Cha đã nói. Nhưng tôi nghĩ chúng tôi
cũng phải thêm cái gì đó của chính mình: đâu đã là các kinh nghiệm của chúng tôi trong
cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha Phanxicô, được ngồi gần ngài, nói chuyện với ngài, trao
đổi vài ý kiến với ngài và có cảm tưởng sâu đậm rằng Đức Giáo Hoàng không coi mình
như là người ở ngoài hay ở bên trên các Giám Mục, nhưng là một trong các Giám Mục.
Ý thức của ngài về tính cách giám mục đoàn là một thực tại sống động. Ngài đã gây
kinh ngạc, khi nói với chúng tôi: “Chúng ta là anh em và tôi cần anh em biết điều
này và điều này”, các vấn đề rất nghiêm trọng. Và đó đã là một khích lệ biết bao!
Vì thế ngài là Giáo Hoàng, ngài có vấn đề này và biết rằng cả chúng tôi cũng có vấn
đề đó và muốn chia sẻ nó với chúng tôi. Trong sự chia sẻ ngài rất cởi mở, bởi vì chúng
tôi trả lời ngài về kiểu phải đương đầu với vấn đề như thế nào.
Hỏi: Xem
ra Đức Thánh Cha Phanxicô chú ý tới mọi tình hình mà ngài tiếp cận. Trong diễn
văn ngài đã đề cập tới biết bao nhiêu vấn đề: ngài đã
nói tới nạn gian tham hối lộ, tới trẻ mồ côi vì bệnh liệt kháng AIDS vv... có đúng
thế không thưa Đức Hồng Y?
Đáp: Vâng, đúng vậy. Đức Thánh Cha đã
đề cập tới tất cả các vấn đề đó. Tôi có cảm tưởng - bởi vì tôi đã đọc và lắng nghe
diễn văn - tôi có cảm tưởng ngài đi thẳng vào trọng tâm của vấn đề trong mọi trường
hợp. ”Đây là chính xác nơi chúng ta đang đứng”, ngài biết nó là chuyện gì. Tôi biết
rằng ngài sẽ cầu nguyện cho chúng tôi, sẽ giúp chúng tôi, và nếu chúng tôi có cần
một lời khuyên, thì ngài sẽ cho chúng tôi một lời khuyên...
Hỏi: Đức Hồng
Y đã nhắc tới Ngày cầu nguyện cho hòa bình Nam Phi trước các cuộc bầu
cử hồi năm 1994. Năm nay có xảy ra điều tương tự như cách đây 20 năm không thưa Đức
Hồng Y?
Đáp: Có. Chúa Nhật 27 tháng 4 vừa qua là Ngày cầu nguyện
cho Nam Phi, để tái trao ban sức mạnh cho điều đã xảy ra cách đây 20 năm, khi chúng
tôi đang ở trong cuộc khủng hoảng và khám phá ra rằng cách thế duy nhất giúp ra khỏi
cuộc khủng hoảng đó đối với chúng tôi đó là Thiên Chúa, bằng mọi cách và phải có Người
hiện diện giữa chúng tôi. Ngày cầu nguyện hồi đó đã là ngày 27 tháng 4, ngày kỷ niệm
sự thay đổi. Tôi chắc chắn rằng chúng tôi cũng sống cùng điều đó. Và tôi tin rằng
Thiên Chúa lắng nghe các lời cầu ấy, bởi vì Ngài biết là chúng đến từ con tim, từ
những người nói: ”Chúng ta hãy cầu nguyện, bởi vì chúng ta cần có Thiên Chúa trong
cuộc sống chúng ta”, chứ không phải để được một phép lạ. Chúng tôi cần có Thiên Chúa
trong cuộc sống chúng tôi.