Lần trước chúng ta đã khai triển hai chiều kích đầu tiên của bí tích hòa giải, hay
bí tích giải tội, hoặc bí tích sám hối: bí tích hòa giải thời sự hóa lời cứu độ của
Thiên Chúa qua trung gian Giáo Hội, việc xá giải qua các vị thừa tác giám mục linh
mục, và lời cầu nguyện hữu hiệu của cộng đoàn giáo hội cho hối nhân. Chiều kích thứ
ba là việc hòa giải với Thiên Chúa và với Giáo Hội, mà hối nhân là chi thể.
Sự can thiệp của Giáo hội như dấu chỉ hữu hình việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên
Chúa đối với hối nhân bảo đảm một cách hữu hình và trên bình diện lịch sử cho các
kitô hữu ơn tha thứ và hòa giải với Thiên Chúa, đồng thời cũng ban cho họ sự bình
an với Giáo Hội. Việc hòa giải với Thiên Chúa được đòi hỏi và được ban qua chức thừa
tác thánh của Giáo Hội. Khi tín hữu phạm tội, họ xúc phạm đến tình yêu thương của
Thiên Chúa và cũng gây thương tích cho Giáo Hội. Nghĩa là họ khiến cho gương mặt của
Thiên Chúa nơi mình bị vấy bẩn, lọ lem, hôi thối, xấu xí đi, khiến cho nó không phản
ánh gương mặt của Thiên Chúa nữa, và làm cho người khác không nhận ra Ngài khi nhìn
vào họ nữa. Đồng thời khi phạm tội tín hữu cũng ngăn cản và làm giảm thiểu năng động
hữu hiệu của Giáo Hội, như dấu chỉ sự kết hiệp thân tình với Thiên Chúa và sự hiệp
nhất của toàn thể nhân loại (LG 1). Vết thương ấy tạo ra nơi kẻ có tội một sự xa cách
bản thể với Giáo Hội, là nơi kết hiệp với Thiên Chúa, một sự xa cách tình bác ái của
Giáo Hội, là ơn của Chúa Thánh Thần; bởi vì tội lỗi luôn luôn là sự khước từ tình
yêu, từ chối Thần Khí linh hoạt Giáo hội. Tội càng nặng bao nhiêu, thì sự khước từ
lại càng trầm trọng bấy nhiêu. Đây không phải là một sự chia cách hữu hình và hoàn
toàn, bởi vì nhờ ơn của bí tích Rửa Tội, tuy là kẻ có tội, tín hữu vẫn tiếp tục là
thành phần của Giáo Hội, nhưng là một sự xa cách nội tâm và vô hình đối với tình bác
ái cứu độ của cộng đoàn. Như thế không được hạn chế ở chỗ coi việc hòa giải như là
một cử chỉ chỉ có giá trị trong trật tự của các tương quan pháp lý. Cần phải biết
tiếp nhận việc sát nhập tín hữu vào Giáo Hội như là nơi sinh tử tháp nhập tín hữu
vào Chúa Kitô. Nếu như thế việc chia sẻ thực thụ của hối nhân vào cộng đoàn, mà họ
trở về, như là chi thể một cách tràn đầy, có thể được miêu tả, theo kiểu nói của Tin
Mừng, như là tháp một cành vào thân nuôi dưỡng nó. Nhận sự an bình của Giáo hội, như
vậy, có nghĩa là lấy lại chỗ là thành viên của mình trong môi trường sinh động này
là Giáo hội. Việc trở lại bình an với Giáo hội đem lại sự tha tội và ơn tình yêu thương
của Thiên Chúa và của Giáo Hội, nghĩa là ơn của Thần Khí Chúa Kitô lại hiệp nhất tội
nhân với Giáo Hội, với Chúa Kitô với Thiên Chúa Cha. Nói một cách khác, kitô hữu đã
chống lại và xa rời Thiên Chúa và các anh chị em khác, tìm trở lại tình yêu thương
của Thiên Chúa trong tình yêu thương của các anh chị em khác, là sự hiện diện hữu
hình và lịch sử của tình yêu Thiên Chúa trên trái đất này. Và như vậy chúng ta có
thể nói rằng sự hoán cải của kitô hữu trở về với Thiên Chúa và sự hòa giải với Người
được thực hiện trong việc trở về với Giáo Hội, xét rằng trong sự tha thứ huynh đệ
của cộng đoàn, người ta thông truyền cho người anh chị em có tội, tình yêu thương
của Chúa Kitô, là Đấng tha thứ.
Hiệu quả sâu đậm nhất mà hối nhân nhận được
trong bí tích sám hối là một sự bình an đa diện: bình an với Thiên Chúa, với chính
mình, với Giáo hội, và với thế giới. Nói cách khác, đó là sự hiệp nhất sâu thẳm mà
hối nhân tìm lại được trong tương quan với Thiên Chúa, với Giáo Hội và với chính mình.
Sự hiệp nhất với Thiên Chúa, bởi vì sự bình an với Người không phải chỉ là một cử
chỉ đơn sơ tha thứ các tội lỗi nhờ các công nghiệp của Chúa Kitô, là Đấng để chúng
ta ở lại trong điều kiện là những kẻ có tội. Niềm an bình đó là tình yêu thương của
Thiên Chúa - chính Thiên Chúa tự hiến để có thể ở trong kitô hữu được tái nhận vào
Giáo Hội. Chúa Thánh Thần lại trở thành nguyên lý siêu nhiên cuộc sống của họ, và
tất cả Ba Ngôi Thiên Chúa lại ở trong họ một cách nhiệm mầu, và Ba Ngội hòa nhập vào
họ một cách sâu xa, tới độ trở thành cái tôi thân tình nơi họ: ”Ai yêu mến Thầy thì
sẽ giữ lời Thầy, Cha thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở trong người
ấy” (Ga 14,23). Trong sự sám hối kẻ có tội mở cửa ra cho Thiên Chúa, là Đấng muốn
vào trong tâm hồn họ: ”Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa,
thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với
Ta” (Ap 3,20). Như thế kitô hữu được tràn đầy sự hiện diện này của Thiên Chúa, họ
trở thành thụ tạo mới theo mô thức và hình ảnh của Chúa Kitô (1 Cr 12,13; 2 Cr 1,21-22)
và tham dự vào bản tính của Thiên Chúa (2 Pr 1,34). Sự hiệp nhất với Thiên Chúa thực
hiện sự hiệp nhất với chính mình vượt xa kinh nghiệm nhận thức. Và việc tái lập một
cái tôi đã tự tách rời trong việc phản bội cấu trúc tạo thành chính mình: cái tôi
đích thực đã được phục hồi, không phải trong sự tự lập tuyệt đối của nó, nhưng trong
sự tùy thuộc hoàn toàn nơi Thiên Chúa, là Đấng ngự trong con người và biến đổi nó
theo hình ảnh của Ngài. Mục đích và sự tràn đầy của cuộc sống con người được đạt tới
bên trong sự tùy thuộc này: nơi đây con người tìm lại được điều kiện của thế quân
bình ban đầu, là sự hiệp thông với Thiên Chúa ngay từ đời này, trên trái đất này.
Nhưng cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa chỉ đích thực trong mức độ, trong đó nó
trải rộng ra cho các anh chị em khác. Sự biến đổi nội tâm của kitô hữu phải rộng mở
cho tình yêu đại đồng, bởi vì tình yêu đích thật không biết tới các biên giới. Và
chiều kích huynh đệ của sự hiệp nhất khiến cho hối nhân có khả năng có các tương nhân
bản có trách nhiệm và hiến dâng trước các anh chị em khác. Các anh chị em khác được
nhìn và yêu thương vì Thiên Chúa, vì chính dựa trên tình yêu thương tha nhân mà Thiên
Chúa phán xử chúng ta: Khi Chúa Kitô đến trong vinh quang và ngự trên ngai vinh hiển
để xét xử mọi người, ”các dân thiên hạ sẽ được tụ tập trước mặt Người và Người sẽ
tách rời họ ra. Bấy giờ Người sẽ phán với những người ở bên phải rằng: Nào những kẻ
Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thủơ
tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát các ngươi đã cho
Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho
mặc; Ta đau yều, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”. Bấy giờ
những người công chính sẽ thưa rằng: ”Lậy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa
đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước;
hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu, hoặc ngồi
tù, mà đến hỏi han đâu?” Đức Vua sẽ đáp lại rằng: ”Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần
các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi
đã làm cho chính Ta vậy... ” (Mt 25,31-46). Cuộc sống hiệp thông với Thiên Chúa sẽ
là ảo tưởng, nếu chúng ta khép kín trong chính mình và yêu sách chỉ hạn hẹp nơi Thiên
Chúa hay nơi cá nhân: việc phụng tự đích thật đòi buộc tình bác ái huynh đệ: ”Nếu
khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất
bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em
ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5,23-24). Thiên Chúa không tha thứ cho
kẻ không sẵn sàng tha thứ: ”Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh
em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người
ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em” (Mt 6,12-15).
Sự hihệp
nhất mà hối nhân tìm lại đựơc với Thiên Chúa và với các anh chị em khác trong cuộc
gặp gỡ bí tích, tuyệt đỉnh của cuộc sống sám hối, cũng là sự hiệp nhất với Giáo Hội,
bởi vì Thiên Chúa ở trong Giáo hội như trong đền thờ của Người, và các anh chị em
khác là chi thể của Giáo Hội cũng như hối nhận vậy.
Và sự hiệp nhất được canh
tân này là một dấn thân canh tân và tiệm tiến của kitô hữu, và nói cho cùng là của
Giáo Hội, trong việc thành toàn sứ mệnh của họ trong thế giới này. Nói cách khác,
sự hiệp nhất này có nghĩa là việc tái tháp nhập của tín hữu kitô vào trong năng động
được canh tân của biến cố phục sinh của Chúa Kitô, luôn hoạt động trong lịch sử.
Như thế việc hoán cải, sám hối, hòa giải không chỉ trao ban cho kitô hữu ơn tha tội,
mà cũng ban cho họ một sự biến đổi, bằng cách canh tân các sức mạnh của họ và luôn
ngày càng khiến cho họ dấn thân hơn cho sự thành toàn sứ mệnh của họ trong Giáo Hội
và trong thế giới. Ở đây chúng ta hãy nghĩ tới ý nghĩa sâu xa của sự thỏa mãn và cuộc
sống kitô như sự thỏa mãn liên tục.
Và tất cả những điều này không chỉ diễn
tả trước và là bảo chứng của chiến thắng cuối cùng và hoàn toàn của vương quốc, đã
được hiên thực trong hy vọng với biến cố chết và phục sinh của Chúa Kitô, nhưng cũng
là việc biểu lộ hữu hiệu sự hiện diện thời sự của vương quốc đó trong thế giới, là
việc tháp nhập đặc biệt của lịch sử cứu độ vào trong lịch sử tạo dựng.