... Thứ bảy ngày 24-10-2009, tại nhà thờ giáo xứ Thánh Gioan Tẩy Giả ở Arnsberg-Neheim,
Đức Cha Hans-Josef Becker, Tổng Giám Mục giáo phận Paderborn, miền Trung nước Đức,
cử hành Thánh Lễ chính thức khai mạc án phong chân phước cho Linh Mục Franz Stoch.
Cha Franz Stoch chào đời năm 1904 tại Neheim và qua đời ngày 24-2-1948 tại bệnh viện
Cochin ở thủ đô Paris, hưởng dương 44 tuổi. 44 tuổi đời và vỏn vẹn 12 năm thi hành
chức vụ Linh Mục nhưng Cha đã trở thành ánh đuốc chiếu sáng giữa đêm đen âm phủ của
thời đệ nhị thế chiến 1939-1945 tại Pháp. Cha nêu cao tấm gương Đức Tin rạng ngời.
Đức Tổng Giám Mục Angelo Giuseppe Roncalli - sau này là Đức GiáoHoàng
Gioan XXIII - lúc làm Sứ Thần Tòa Thánh tại Paris đã nói: - Franz Stoch
không phải một tên gọi nhưng là một chương trình sống!
Đúng thế!
Trọn cuộc đời vị Linh Mục người Đức - bạn hiền của nước Pháp - đích thật là chương
trình hy vọng. Hiện diện, nhân hậu, an bình, khiêm tốn, quảng đại, kín đáo và can
đảm là những đức tính cao quý được phát ra từ môi miệng của những ai từng hân hạnh
quen biết Cha. Người Pháp âu yếm tặng Cha danh hiệu ”Tuyên Úy hỏa ngục” hoặc ”Tổng
Lãnh Thiên Thần trong hỏa ngục”.
Ngày nay, Cha Franz Stoch xuất
hiện chẳng những như chứng nhân hòa bình và bác ái trong những hoàn cảnh bi thảm nhất,
nhưng còn bí nhiệm hơn, như một vị tiền hô cho thời đại tân tiến. Cha đã trải qua
hai thế chiến, đã chứng kiến cái man rợ kinh hoàng của ”thế kỷ sắt”, của
”thời đen tối”. Và trong bầu khí ngập tràn hận thù ấy, Cha luôn luôn hoạt
động cho hòa bình. Niềm ước muốn chân thành nhất của Cha là hòa giải quê sinh Đức
Quốc của Cha với nước Pháp mà Cha tận tình phục vụ và yêu quý.
Năm 1926 sau
khi gia nhập chủng viện Paderborn thầy Franz Stoch làm chuyến du hành đầu tiên sang
Pháp tham dự Hội Nghị Quốc Tế hòa bình. Năm 1928 thầy ghi danh vào Học Viện Công Giáo
Paris. Thầy là sinh viên người Đức đầu tiên tại chủng viện các Cha Carmes từ sau đệ
nhật thế chiến. Kể từ đây cuộc đời thầy gắn liền với nước Pháp, quê hương thân yêu
thứ hai của thầy. Thụ phong Linh Mục năm 1932 và hai năm sau, Cha Franz Stoch được
chỉ định làm Cha Sở giáo xứ Đức tại thủ đô Paris. Cha là người của những ”hoàn-cảnh
bản-lề”. Từ bản tính kín đáo, Cha làm nổi bật nhân tính của Đức Tin và khả năng thích
nghi vào mọi môi trường. Tại giáo xứ Đức, Cha có cơ hội gặp gỡ những người thuộc mọi
thành phần khác nhau: từ các thiếu nữ làm công không lương đến các người Đức đủ loại
chính kiến, người Do Thái trốn chạy cuộc bắt bớ của chế độ quốc-xã vì Adolf Hitler
(1889-1945) vừa lên cầm quyền ngày 30-1-1933; rồi các thành phần đối lập chính trị
cũng như các nhân vật chính thức của tòa đại sứ Đức tại Paris. Vốn là người gặp gỡ,
Cha tự để mình được thao luyện trong gặp gỡ. Hoàn toàn dâng hiến cuộc đời cho sứ mệnh
phục vụ anh chị em đồng loại, Cha trở thành người mang Đức Chúa GIÊSU KITÔ, bởi vì
Đức Chúa GIÊSU KITÔ sống trong Cha. Tính kín đáo, lòng khiêm hạ và sự can đảm của
Cha đã tỏa sáng sự hiện diện của Đức Chúa GIÊSU KITÔ và gây một ấn tượng mạnh trên
tất cả những ai được hân hạnh gặp gỡ và quen biết Cha.
Nhưng mọi sự đảo lộn
hết vào năm 1940 khi Cha Franz Stoch được chỉ định làm Tuyên Úy hai nhà tù Cherche-Midi
và Fresnes ở Paris. Trong vòng 4 năm từ 1940 đến 1944 Cha có nhiệm vụ coi sóc các
tù nhân Pháp, phần đông là con tin và quân kháng chiến. Cách thiêng liêng nhưng nhất
là cách nhân đạo, Cha đã trợ giúp tinh thần cho khoảng hơn một ngàn tù nhân Pháp bị
kết án tử hình, bằng cách thắng vượt sự nghi ngờ chính đáng của họ, khi Cha cố gắng
giúp họ bằng những dịch vụ nhỏ nhặt nhất. Chẳng bao lâu sau Cha chiếm được lòng tín
cẩn của các tù nhân cho dù họ là Công Giáo, do thái, cộng sản hay vô thần. Cha trở
thành một biểu tượng thân yêu đối với họ, một gương mặt dịu hiền mà họ trông thấy
trước khi nhắm mắt lìa đời. Giữa lòng hỏa ngục của các vụ tra tấn, các cuộc hành hình,
của tuyệt vọng, Cha nhập thể niềm hy vọng cuối cùng, khả thể tin nơi chiều kích cao
cả của con người và quyền năng tối thượng của THIÊN CHÚA, vào một thời điểm mà THIÊN
CHÚA xem ra vắng mặt.
Cha Franz Stoch đau niềm đau của những người Cha tháp
tùng, cho đến độ kiệt sức, nhưng Cha mang đến cho họ sự nâng đỡ, niềm khích lệ và
hoàn toàn kính trọng mỗi một trường hợp lương tâm mà họ ký thác cho Cha. Cha vô cùng
ngỡ ngàng xúc động trước nét đẹp quý phái tâm hồn và sự can đảm của một số tù nhân
bị kết án tử hình, tỏ lộ rõ ràng sức hoạt động của ơn thánh như trường hợp của ông
Honoré d'Estienne d'Orvers bị hành quyết ngày 29-8-1941.
Tấm gương của vị
sĩ quan người Pháp này sẽ hỗ trợ công tác mục vụ của Cha suốt thời đệ nhị thế chiến.
Trong thư đề ngày 9-10-1945 Cha viết: ”Tôi giữ lòng trung tín với những
người trong vòng 4 năm tôi làm Linh Mục Tuyên Úy. Tôi đã
hứa cầu nguyện cho họ và họ ở cạnh tôi như những vị đại thánh và tử đạo trong
nền văn minh của chúng ta bị ngớ ngẩn khùng điên! Mỗi khi tôi cần một ơn đặc biệt,
một soi sáng thiêng liêng hoặc một ơn hữu hiệu, tôi liền thân thưa với những người
biết chấp nhận chết, với những người đi thẳng về Trời với Chúa mà tôi đã có
thể tháp tùng trên chặng đường cuối cùng của họ: tôi xin họ cầu thay nguyện
giúp cho tôi và tôi xác tín rằng lời họ khẩn cầu sẽ được Chúa nhậm lời”.
Tháng 8 năm 1944 khi Paris được giải phóng, Cha Franz Stoch bị bắt và bị giải về trại
tù tại Cherbourg. Nước Pháp liền quyết định tụ họp các chủng sinh Đức bị bắt làm tù
binh vào cùng một nơi và thành lập ”chủng viện kẽm gai”. Mục đích là để giải tỏa tâm
thức quốc-xã của nước Đức. Cha Franz Stoch hình như là người quan phòng để trở thành
Cha Bề Trên Chủng Viện: Cha vừa là bạn của nước Pháp vừa là người Đức ái quốc. Nơi
Cha không hề có mảy may sự đồng lõa với ý thức hệ đức-quốc-xã. Sau nhiều do dự, Cha
chấp nhận và thích ứng với một sứ vụ mà Cha cảm thấy mình không được chuẩn bị. Từ
tháng 8 năm 1945 đến Lễ Hiện Xuống năm 1957 đã có khoảng một ngàn bạn trẻ đi qua ”chủng
viện kẽm gai” tại Chartres. 2 phần 3 trở thành Linh Mục. Chủng Viện nhận được
sự hỗ trợ khác thường. Ban giảng huấn gồm các Linh Mục tù nhân nhưng cũng có các giáo
sư bằng lòng rời đại học bên Đức đến làm tù nhân để dạy cho các chủng sinh. Ngoài
ra chủng viện nhận được sự nâng đỡ của hàng linh mục Pháp và của đức sứ thần tòa thánh
Angelo Roncalli sau này là Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII.
Cha Franz Stoch hoàn
thành chức vụ trong những điều kiện vô cùng khó khăn nên sức khoẻ bị suy nhược thật
nhanh. Cha trút hơi thở cuối cùng ngày 24-2-1948 tại nhà thương Cochin ở thủ đô Paris,
hưởng dương 44 tuổi. Cha ra đi trong cô đơn và gần như bị mọi người quên lãng. Thế
nhưng không phải vậy. Ngày 3-7-1949 Cha Jean Pihan (1912-1996) cử hành thánh lễ tại
nhà thờ Saint-Louis des Invalides để tuyên dương công đức Cha Franz Stoch với lời
lẽ như sau: - Bài học nào chúng ta rút ra từ cuộc đời ngắn ngủi nhưng nhiều
hy sinh của Cha Franz Stoch? Một bài học thôi nhưng gồm tóm tất cả. Chúng ta có thể
hãnh diện là Kitô hữu. Chúng ta còn có thể hãnh diện khi nghĩ rằng:
giữa mọi tàn khốc của thế chiến, Kitô Giáo đã cho phép một phép lạ thường
trực diễn ra: đó là sự hiện diện khoan hòa nhân ái của Cha Franz Stoch.
... ”Ngày ấy, trong xứ Giuđa, người ta sẽ hát bài ca này: Chúng ta có thành trì
vững chắc: Chúa đã đặt tường trong lũy ngoài để chở che. Mở cửa
ra cho dân tộc công chính bước vào, một dân tộc trọn niềm trung nghĩa. Lạy Chúa, Ngài
quyết giữ cho dân được an cư lạc nghiệp, vì họ tin vào Ngài. Đến muôn
đời, hãy tin vào THIÊN CHÚA: chính THIÊN CHÚA là Núi Đá bền vững ngàn
năm .. Đường kẻ lành đi là đường ngay thẳng, lối kẻ hiền theo là lối Chúa san bằng.
Vâng, lạy THIÊN CHÚA, trên con đường thánh ý Chúa vạch ra, chúng con chờ đợi
Chúa. Hồn chúng con khát vọng Thánh Danh và ước mong tưởng nhớ đến Ngài. Suốt
đêm trường, hồn con khao khát Chúa, trong thâm tâm, những kiếm tìm khắc khoải.
Khi Chúa thực thi quyết định của Chúa khắp năm châu, người bốn bể học biết
đường công chính. Kẻ ác dù có được dung tha cũng không học biết đường công chính;
trong xứ người lương thiện, nó vẫn làm những chuyện gian tà, chẳng thấy được oai phong
của THIÊN CHÚA. Lạy THIÊN CHÚA, tayNgài giơ lên, chúng chẳng thấy, nhưng sẽ
thấy Ngài yêu thương nồng nhiệt dân này, khiến chúng phải thẹn thùng xấu hổ; lửa dành
cho thù địch của Ngài sẽ thiêu đốt chúng. Lạy THIÊN CHÚA, Ngài cho chúng con được
an cư lạc nghiệp, vì hết mọi việc chúng con làm đều do Ngài thực hiện
cho chúng con”(Isaia 26,1-12).
(”ÉGLISE en Eure-et-Loir”, Revue
diocésaine, Diocèse de Chartres - numéro 183 - Mai 2013, trang 8-9)