Trong thế giới tục hóa duy vật ngày nay thật khó mà nói tới viêc sám hối hay đền tội.
Trước hết bởi vì con người ngày nay đã đánh mất ý thức về tội và nhiều người không
còn biết phân biệt thiện ác, lành dữ, tốt xấu nữa. Đây là thảm cảnh của rất nhiều
người phải sống dưới chế độ duy vật vô thần lâu năm, đặc biệt là người trẻ.
Thứ hai từ sám hối thường khiến cho người ta nghĩ tới các hình phạt khác nhau mà tín
hữu phải lãnh nhận để đền tội. Lý do là vì trong qúa khứ người ta đã qúa nhấn mạnh
trên khía cạnh tiêu cực cùa từ này và hầu như tuyệt đối nêu bật dấn thấn của con người
trong việc sám hối, hay đền tội. Hậu qủa là nó làm méo mó chiều kích tin mừng của
cuộc sống Kitô. Phần còn lại liên quan tới cái nhìn tiêu cực đối với việc sám hối
phát xuất từ sự phân chia qúa rõ ràng giữa sám hối được hiểu như thế với việc cử hành
sám hối trong Giáo Hội. Chính vì thế cần cấp thiết phục hồi ý nghĩa đúng đắn của việc
sám hối trong qúa cũng như trong cuộc sống thường ngày hiện nay và cũng cần phải tái
hội nhập nó vào việc sám hối của toàn Giáo Hội và trong việc cử hành sự hòa giải.
Trước hết là một số dữ kiện kinh thánh liên quan tới việc sám hối. Sám hối giả thiết
một sự hoán cải, một thay đổi nội tâm triệt để, toàn diện. Khi tầm nguyên từ hoán
cải ”teshuva” trong tiếng Do thái và ”metanoia” trong tiếng Hy lạp, chúng ta thấy
hoán cải teshuva có nghĩa là đổi hướng 180 độ, bỏ hướng đang đi để quay trở lại đàng
sau: hoán cải là đang rời xa Thiên Chúa thì quyết định đổi hướng quay trở về với Người.
Hoán cải metanoia có nghĩa là nghĩ cao hơn, xa hơn, nghĩ khác đi: thay đổi tâm trí
thay đổi cung cách suy tư, nói năng và hành xử. Sám hối là thay đổi nội tâm một cách
triệt để, toàn diện. Đó là sự trở về lớn của cá nhân và của cộng đoàn.
Hoán
cải, sám hối, trở về với Giavê Thiên Chúa đã là lời kêu mời liên lỉ các ngôn sứ cựu
ước hướng tới dân Do thái, bỏ Thiên Chúa để tôn thờ các thần ngoại. Ngay trong chương
1 ngôn sứ Isaia đã ghi lại lời Thiên Chúa đau đớn trách cứ Israel như sau: ”Trời hãy
nghe đây, đất lắng tai nào, vì Đức Chúa phán: ”Ta đã nuôi nấng đàn con, cho chúng
nên khôn lớn, nhưng chúng đã phản nghịch cùng Ta. Con bò còn biết chủ, con lừa còn
biết cái máng cỏ nhà chủ nó. Nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì. Khốn
thay dân tộc phạm tội, dân chồng chất lỗi lầm, giống nòi gian ác, lũ con hư hỏng!
Chúng đã bỏ Đức Chúa, đã khinh Đức Thánh của Israel, mà quay lưng đi” (Is 1,2-4).
Và Thiên Chúa thúc giục dân Israel: ”Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội
ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện,
tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho
qủa phụ... Tội các ngươi dầu có đỏ như son cũng hóa trắng như tuyết, có thẫm tựa vải
điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,16-17.18).
Vì Israel là dân riêng Chúa
chọn và ký kết giao ước tình yêu nên tội bỏ Giavê Thiên Chúa để tôn thờ các thần ngoại
bị các ngôn sứ coi như tội ngoại tình. Ngôn sứ Giêrêmia tố cáo dân Israel: ”Thế rồi
trên khắp các đồi cao, dưới mọi lùm cây rậm, ngươi uốn mình như một con điếm (Gr 2,20-21).
”Và ngươi, ngươi đã đàng điếm với bao nhiêu tình nhân ... Ngước mắt lên các đồi trọc
mà xem, có nơi nào ngươi đã chẳng trao thân cho người khác! Ngươi ngồi đợi chúng bên
vệ đường như tên A rập ngồi rình trong sa mạc. Ngươi đã làm cho xứ sở ra ô uế vì những
chuyện điếm đàng và gian ác của ngươi... Và ngươi cứ mặt dầy mặt dạn như con đĩ, mà
chẳng biết xấu hổ là gì” (Is 3,1-2). Nhưng Thiên Chúa vẫn kiên tâm thiết tha kêu mời
Israel trở về với Ngài: ”Trở về đi hỡi Israel phản bội. Ta sẽ không nghiêm nét mặt
với các ngươi nữa, vì Ta giầu lòng thương xót, và Ta không giận dữ mãi đâu” (Gr 3,12).
”Thế nhưng người đàn bà thất trung với bạn minh làm sao, thì hỡi nhà Israel, các ngươi
cũng thất trung với Ta như vậy... Trở về đi, hỡi lũ con phản bội, Ta sẽ chữa lành
tội phảm bội của các ngươi” (Gr 3,20-22). Việc hoón cải cải Israel sẽ thay đổi tương
quan của họ với Thiên Chúa và biến đổi cả tương quan của chư dân nữa: ”Nếu ngươi trở
về, hỡi Israel, nếu ngươi trở về với Ta, nếu ngươi loại bỏ khỏi mặt Ta các thần ghê
tởm và không còn đi lang bạt, nếu ngươi kêu ”Đức Chúa hằng sống”, mà thề cách trung
thực, ngay thẳng và công chính, thì chư dân cũng sẽ lấy danh Người mà cầu phúc cho
nhau, và nơi Người chư dân cũng sẽ hãnh diện” (Gr 4,1-2).
Nhưng Israel đã
không trở về với Thiên Chúa. Trái lại còn đem cả các thần ngoại vào Đền Thờ và cúng
bái dâng hương cho chúng trong đó, đến độ Giavê Thiên Chúa phải bỏ Đền Thờ, như ngôn
sứ Êdêkiel ghi trong chương 8 và chương 10. Và hình phạt đã được báo trước nhiều lần
là biến cố dân Do thái bị đạo binh của đế quốc Babilonia do vua Nabuchodonosor thống
lĩnh xâm lăng. Giêrusalem bị bao vây, đân chúng bị tàn sát vì gươm giáo, và đói khát
đến nỗi phải ăn thịt lẫn nhau, và sau cùng bị lưu đầy biệt xứ.
Trong các chương
4 và 5 ngôn sứ Hosea tố cáo tội lỗi của mọi giới trong dân Israel từ tư tế cho tới
các vua quan, ngôn sứ và thường dân: ”Qủa thật trong xứ này, chẳng có tín thành, chẳng
có ân nghĩa, cũng chẳng có sự hiểu biết Thiên Chúa. Chỉ có bội thề, dối trá, sát nhân
và trộm cưởp, áp bức với ngoại tình, các cuộc đổ máu cứ nối tiếp nhau. Chính vì thế
mà xứ sở tang thương, dân cư tàn tạ, ngay thú vật ngoài đồng cũng như chim trời cá
biển, tất cả đều chết hết” (Hs 4,1-3). Và trong chương 14 ngôn sứ ghi lại lới Thiên
Cha tha thiết kêu gọi Israel hối cải như sau: ”Hỡi Irael, hãy trở về với Đức Chúa
là Thiên Chúa của ngươi. Chính vì tội ác của ngươi mà ngươi đã vấp ngã. Hãy trở về
với Đức Chúa, mang theo lời cầu nguyện. hãy thưa với Người: ”Xin thứ tha mọi gian
ác, xin vui nhận lời ngợi khen chúng con dâng lên Ngài làm lễ vật thay thế bò tơ”
(Hs 14,2-3).
Ngôn sứ Gioel cũng mời gọi dân Israel sám hối như sau: ”Các ngươi
hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”. Đừng
xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì
Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương. Người hối tiếc vì đã giáng
họa” (Ge 2,12-13). Còn ngôn sứ Amos thì khuyến cáo dân: ”Hãy tìm điều lành chứ đừng
tìm điều dữ, rồi các ngươi sẽ được sống, và như vậy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh
sẽ ở cùng các ngươi như lời các ngươi nói. Hãy ghét điều dữ và chuộng điều lành, nơi
cửa công hãy thiết lập công lý; biết đâu Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, sẻ dủ
lòng thương số sót của Israel” (Am 5,14-15).
Tuy cứng đầu cứng cổ, nhưng tín
hữu cũng nhận biết các tội lỗi của họ. Vào cuối chương 1 và đầu chương 2 ngôn sứ Barúc
ghi lại lời nguyện diễn tả tâm tình thống hối của những người lưu đầy như sau: ”Đức
Chúa, Thiên Chúa chúng tôi qủa là Đấng công minh; còn chúng tôi, những người Giuđa
và cư dân Giêrusalem, các vua và thủ lãnh, tư tế và ngôn sứ cũng như các bậc cha ông,
chúng tôi phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng, vì tất cả chúng tôi
đã phạm tội trước nhan Đức Chúa, đã bất tuân, không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa
chúng tôi, không vâng theo các mệnh lenh Đức Chúa đã đề ra trước mắt chúng tôi. Từ
ngày Đức Chúa đưa cha ông chúng tôi ra khỏi Ai Cập cho tới ngày nay, chúng tôi vẫn
bất tuân lời Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, vẫn làm ngơ không chịu nghe tiếng Người
cho nên như sự việc đã xảy ra hôm nay đây, những bất hạnh và lời nguyền rủa vẫn đeo
đuổi chúng tôi, đúng như Đức Chúa đã tuyên bố với ông Môshê tôi tớ Người, ngày Người
đưa cha ông chúng tôi ra khỏi Ai Cập để ban cho chúng tôi miền đất tràn trề sữa và
mật. Chúng tôi đã không vâng nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, không tuân
giữ mọi lời các ngôn sứ Người đã sai đến nói với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã
cứ theo lòng dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục dịch các thần khác, và làm điều dữ
trước mắt Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi. Vì thế Đức Chúa thi hành lời đã phán liên
quan đến chúng tôi, đến các thẩm phán lãnh đạo Israel, đến các vua và thủ lãnh của
chúng tôi, đến người Israel và Giuđa. Dưới cả vòm trời này, chưa hề xảy ra điều gì
giống như điều Người đã thực hiện tại Giêrusalem, như đã chép trong Luật Môshê: đến
độ trong chúng tôi, kẻ ăn thịt con trai, người ăn thịt con gái của mình. Người còn
bắt các ngài lụy phục các vương quốc chung quanh chúng tôi, khiến các ngài nên trò
ô nhục, nên đồ ghê tởm, giữa mọi dân chung quanh, nơi Đức Chúa đã phân tán các ngài
đến... Đức Chúa, Thiên Chúa chúng tôi qủa là Đấng công minh, còn chúng tôi cũng như
cha ông chúng tôi có phải hổ ngươi bẽ mặt như ngày hôm nay thì cũng đáng. Tất cả những
tai họa Đức Chúa sẽ dùng mà trừng phạt chúng tôi, đã xảy đến cho chúng tôi rồi. Thế
mà chúng tôi chẳng cầu xin tôn nhan Đức Chúa giúp mỗi người từ bỏ những tư tưởng xấu
xa trong tâm hồn. Cho nên Đức Chúa đã canh chừng và đã giáng những tai họa ấy xuống
trên chúng tôi; vì trong mọi việc Đức Chúa đã khiến xảy ra cho chúng tôi, Người thật
là Đấng công minh. Còn chúng tôi đã không nghe tiếng Người, không vâng theo các mệnh
lệnh Đức Chúa đã đề ra trước mặt chúng tôi” (Br 1,15-2,10).
Văn bản trên đây
của ngôn sứ Barúc giúp chúng ta nhận ra các tâm tình thống hối của dân Israel. Họ
nhận biết vá xưng thú các tội lỗi của họ đối với Thiên Chúa, đồng thời cũng nhận ra
sự chính đáng của các hình phạt họ phải gánh chịu như hậu qủa cuộc sống tội lỗi của
họ. Thiên Chúa đối xử công minh, vì chính thái độ chai lì của họ đã dẫn đưa họ tới
thảm cảnh này.