... Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày hai quả bom nguyên tử nổ tại hai thành
phố Hiroshima và Nagasaki, nhưng người dân Nhật vẫn còn kinh hoàng về sức tác
hại và hậu quả tàn khốc của chúng để lại. Vốn tính kiêu kỳ về nền văn hóa quốc gia,
đa số người Nhật giữ thinh lặng, tránh khơi dậy một kinh nghiệm quá đau thương. Phải
một thời gian rất lâu sau đó, có ít người bằng lòng lên tiếng, như lời mời gọi thế
giới chung xây hòa bình. Xin trích chứng từ của bà Kikue Miyamoto vào năm bà 75 tuổi
và sống tại thành phố Kita-Kyushu. Hai trong số 3 người con của bà đã qua đời vì hậu
quả của chất phóng xạ nguyên tử.
Tháng 8 năm ấy - 1945 - tôi bước vào tuổi
20 và đã lập gia đình. Tôi bồng bé gái 8 tháng về thăm mẹ đang sống với người em gái
tại thành phố Hiroshima. Chúng tôi ở với mẹ đã tới ngày thứ sáu. Sáng hôm đó, còi
báo động gióng lên inh ỏi. Tôi nghe tiếng phi cơ bay ầm ĩ trên trời. Tôi cứ ngỡ đó
là chiếc B-29. Vào đúng lúc mẹ tôi đi vào nhà vệ sinh, tôi nghe một tiếng nổ chát
chúa như thể một luồng chớp xuyên qua, rồi thì, tất cả bên trong ngôi nhà trở nên
trắng xóa. Phản ứng đầu tiên của tôi là ôm chặt đứa con gái nhỏ trong vòng tay. Chúng
tôi bị hất bổng lên cao rồi rơi nằm bẹp dưới đất. Đang cố gắng đứng lên, tôi bỗng
nhận ra là căn nhà của chúng tôi đã sụp đổ. Tôi tự nhủ: ”Mình tiêu tùng rồi!” Xong,
tôi lịm đi không hay biết gì nữa.
Chính tiếng kêu của đứa con đã làm tôi tỉnh
lại. Chúng tôi bị kẹt dưới cây đà sàng nhà. May mắn thay có chút lỗ hổng, nên có thể
thở được. Tôi nghĩ rằng mình không thể nào thoát ra được. Nhưng khi gặp hoạn nạn,
đôi lúc người ta tìm thấy một sinh lực khác thường. Sau khi làm đủ mọi cách, tôi đã
thoát ra được. Một người đàn bà kêu tên đứa em gái tôi mấy lần. Đó là mẹ tôi. Tiếng
nói là của mẹ. Nhưng khuôn mặt mẹ biến dạng đến nỗi tôi hỏi: ”Có phải mẹ đó không?”
Mẹ tôi đáp: ”Bộ con không nhận ra mẹ con nữa sao?” Em gái tôi thì đen như dầu hắc.
Em đứng đó, máu me chảy ra từ khuôn mặt và đôi tay.
Cả bốn mẹ con chúng tôi
tìm ẩn náu nơi một rạch sông đã cạn. Dân chúng bắt đầu chạy thoát khỏi thành phố,
nơi các ngọn lửa bốc cháy mù mịt. Mọi người hốt hoảng không biết chạy về đâu. Sau
cùng, chúng tôi cũng theo đoàn người tỵ nạn chạy xuống gầm cầu. Nơi đây đã có một
đám đông người bị thương đang ngồi la liệt. Vào chính lúc ấy, thành phố bỗng trở nên
tối om. Đêm đen như đổ ập xuống và một cơn mưa đen bắt đầu rơi lả chả.
Một
người đàn bà ôm trong tay một cái gói gì đó phủ đầy máu. Tôi hỏi thì bà cho biết là
nhà bà bị sập. Bà thoát được nhưng đứa con nhỏ của bà bị kẹt lại. Thấy lửa bốc cháy,
bà tìm mọi cách để kéo con ra. Bà kéo mạnh đến độ đứa bé chỉ còn lại một thân thể
rách nát, nhầy nhụa. Con bà đã chết. Nhưng bị thất thần vì quá đau đớn, bà vẫn tiếp
tục ôm con vào lòng và đong đưa như ru con ngủ.
Một cảnh tượng kinh hoàng
đang diễn ra trước mắt. Những người bị thương có thân thể chương phình lên, khiến
da bị nứt ra để lộ thịt bị cháy đỏ, giống như củ khoai bị nướng. Những người bị thương
này tìm ra bờ sông và dìm mình xuống nước. Ban chiều, tôi nghe tiếng một người đàn
bà kêu than, lập đi lập lại: ”Cho tôi nước! Xin làm ơn cho tôi uống nước!” Đó là lời
duy nhất bà có thể nói. Bà này cũng đã mất trí vì quá đau đớn và vì quá kinh hoàng.
Tất cả những người bị phỏng nặng và bị cháy sống cũng chỉ lập đi lập lại một câu nói
duy nhất: ”Cho tôi nước! Xin làm ơn cho tôi uống nước!”
Trời tháng 8 nóng
như thiêu như đốt. Các vết thương mưng mủ và sinh giòi bọ nhanh chóng. Nhiều người
bị thương nằm la liệt nơi các chòi được dựng lên cấp cứu, đều bị giòi ăn sống, trong
số đó cũng có mẹ tôi. Phần tôi và đứa con gái nhỏ 8 tháng cũng bị thương nhưng kém
trầm trọng hơn những người khác. Một thời gian ngắn sau đó, hai mẹ con tôi trở về
nhà ở thành phố Kita-Kyushu. Tôi nằm liệt giường trong vòng một năm trời. Đứa con
gái nhỏ của tôi qua đời 5 năm sau đó. Tôi cho ra chào đời hai đứa con trai nữa. Nhưng
đứa con trai đầu lòng qua đời năm lên 4 tuổi vì bị tàn tật. Chỉ có đứa trai út còn
sống đến ngày hôm nay.
Xin tuyệt đối đừng bao giờ gây ra chiến tranh. Nếu
mọi người ý thức điều đó tận nơi cõi lòng thì thảm họa
trên đây đã không xảy ra. Tôi ước ao sống trong một thế giới không có
chiến tranh. Tôi muốn xây dựng một thế giới trong đó các thế hệ trẻ sẽ không bao giờ
phải trải qua một kinh nghiệm đau thương như tôi.
... ”Xin nhớ đến
nỗi khốn cùng của con, và cuộc đời con vất vưởng nuốt cay ngậm đắng. Nỗi niềm riêng
canh cánh bên lòng, khiến hồn con tiêu hao mòn mỏi. Đây là điều con
suy đi gẫm lại, nhờ thế mà con vững dạ cậy trông: Lượng từ bi THIÊN CHÚA đâu đã
cạn, lòng thương xót của Ngài mãi không vơi. Sáng nào
Ngài cũng ban ân huệ mới. Lòng trung tín của Ngài cao cả biết bao! Con tự nhủ: ”THIÊN
CHÚA là phần sản nghiệp của con, vì thế nơi Ngài, con trông cậy”. THIÊN CHÚA
xử tốt với ai tin cậy Ngài, với ai hết lòng tìm kiếm Chúa. Biết thinh lặng
đợi chờ, đợi chờ ơn cứu độ của THIÊN CHÚA, đó là một điều hay. Cũng
là một điều hay cho người nào phải mang ách từ khi còn trẻ”(Sách Ai
Ca 3,19-27).
(”Missions Étrangères de Paris”, n.355, Janvier/2001,
trang 9-11)