... Chúa nhật 10-2-2013 tại nhà thờ xứ đạo Craponne-sur-Arzon thuộc giáo phận Puy-en-Velay,
miền Nam nước Pháp, Đức Cha Henri Brincard đã truyền chức đọc sách và giúp lễ cho
thầy Henri Salet, chặng cuối trước khi được thụ phong phó tế vĩnh viễn trong
thời gian sắp tới. Xin nhường lời cho thầy Henri Salet nói về niềm vui phục vụ.
Tôi sinh trưởng tại vùng thủ đô Paris. Thân phụ tôi là bác sĩ tại Meudon nơi tôi mở
mắt chào đời ngày 30-1-1968. Thân mẫu tôi - bà mẹ nội trợ - dưỡng dục chúng tôi gồm
2 anh trai, 2 chị gái và tôi.
Xuất thân từ gia đình Công Giáo đạo đức, tất
cả chúng tôi thường xuyên tham dự Thánh Lễ. Tôi được Bà Ngoại dạy giáo lý theo lối
xưa dưới hình thức hỏi thưa. Bà kể cho chúng tôi nghe chuyện Kinh Thánh, dạy chúng
tôi Kinh Tin Kính và các mầu nhiệm của đạo thánh Công Giáo. Tôi tin mình vẫn giữ nguyên
Đức Tin mặc dầu có một thời kỳ tôi lơ là trong việc sống đạo.
Năm 1992 là
bác sĩ thú y trẻ tôi đến làm việc tại Craponne-sur-Arzon. Nơi đây tôi gặp Caroline
và cưới nàng làm vợ vào năm 1997. Chúng tôi có 4 con trai. Sau khi thành hôn, Cha
Pierre Badon đề nghị hai vợ chồng tôi dấn thân trong ủy ban chuẩn bị hôn nhân. Mặc
dầu bận rộn với công ăn việc làm và gia đình, chúng tôi vẫn chấp nhận. Khi các con
đến tuổi đi học giáo lý chúng tôi bắt đầu nhận ra tầm quan trọng của việc thực thi
những điều chúng tôi đòi hỏi con cái. Chúng tôi liền đều đặn tham dự Thánh Lễ và cầu
nguyện chung trong gia đình. Tắt một lời, chúng tôi dành một chỗ rộng lớn hơn cho
THIÊN CHÚA trong cuộc đời chúng tôi.
Thế rồi sau lễ Thăng Thiên năm 2007 Cha
Pierre Badon lại xin tôi suy nghĩ về việc trở thành phó tế vĩnh viễn. Ngay lúc ấy,
cả hai vợ chồng đều tỏ ra bỡ ngỡ bởi lẽ chúng tôi không hiểu thế nào là chức phó tế
vĩnh viễn. Riêng tôi, tôi cảm thấy mình không xứng đáng.
Thật ra chúng tôi
do dự về thời gian cần thiết cho việc huấn luyện và việc tôi có khả năng tận hiến
để thi hành chức thừa tác phó tế hay không. Tuy nhiên chúng tôi vẫn chấp nhận suy
nghĩ về sự kiện đưa ra. Sau đó chúng tôi gặp gỡ nhiều phó tế cũng như gặp Cha Henri
Demars và tìm hiểu rõ hơn về chức vụ phó tế vĩnh viễn.
Kể từ đó, cầu nguyện
bắt đầu chiếm chỗ đứng quan trọng hơn trong cuộc đời tôi. Chúa Thánh Linh giúp tôi
làm cuộc phân định đúng đắn: tôi tức khắc nghĩ ngay: ”Nếu Chúa gọi, tôi không được
từ chối!” Tôi cũng hiểu rằng Chúa ban ơn cần thiết khi Người trao phó sứ vụ và nỗi
lo sợ mình không xứng đáng chỉ là điều vu vơ, bởi lẽ xét cho cùng, không ai có khả
năng lãnh nhận một sứ vụ cao cả như thế, nhưng chúng ta được Đức Chúa KITÔ trợ giúp,
và với Chúa, tất cả đều có thể! Nguyên sự kiện tôi được Chúa gọi qua trung gian Đức
Giám Mục bản quyền là một điều bảo đảm. Tôi không được chọn vì có khả năng hơn người
khác nhưng chỉ vì để trở nên dụng cụ trong sứ mệnh xây dựng Nước THIÊN CHÚA.
Tôi không thắc mắc tại sao ”Thưa Vâng” nhưng chỉ hỏi cái gì khiến tôi từ chối? Thế
là mọi do dự tan biến và tôi bắt đầu chương trình huấn luyện tiến đến thừa tác vụ
phó tế.
Điểm lôi cuốn tôi nhất trong chức vụ phó tế chính là có thể cống hiến
hình ảnh một Giáo Hội phục vụ cho những ai xa lìa Giáo Hội và Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Trong xã hội hiện đại có nhiều người sống xa Giáo Hội và không quen biết Linh Mục
nào thì phó tế vĩnh viễn là sự hiện diện của Giáo Hội .. Đây là một sứ vụ liên kết
chặt chẽ với Đức Tin không phải như hậu quả nhưng như con tim. Đây là một sứ vụ khe
khắt mà con người chỉ có thể chu toàn trọn vẹn khi sống mật thiết với Đức Chúa GIÊSU
KITÔ, bởi lẽ chính Người là Vị Tôi Tớ hoàn hảo. Nơi Người phát xuất mọi cuộc sống
thiêng liêng.
Thế rồi có niềm vui phục vụ. Niềm vui phục vụ trước tiên đến
từ niềm vui gặp gỡ tha nhân. Đối với một tín hữu Công Giáo, gặp và phục vụ người thân
cận chính là gặp và phục vụ THIÊN CHÚA. Việc phục vụ bắt đầu trong gia đình và nơi
chỗ làm việc. Đạt đến việc chuyển sứ điệp niềm vui phục vụ là một trong những đích
điểm lớn lao của việc giáo dục con cái.
Nơi môi trường làm việc, ý thức nghề
nghiệp và phục vụ trong chân lý mang lại niềm vui lớn lao: niềm vui của công việc
được hoàn tất tốt đẹp. Chúng ta ai ai cũng đều có ước nguyện bao la là yêu và được
yêu. Rồi chúng ta cũng đau đớn nhận thấy rằng tội lỗi lôi cuốn chúng ta làm điều không
muốn và tách xa chúng ta khỏi điều thiện muốn làm. Khi phục vụ người thân cận là chúng
ta thực thi thánh ý THIÊN CHÚA.
Niềm vui là hoa trái của phục vụ. Phó tế vĩnh
viễn phải quan tâm đến nhu cầu của những người bé nhỏ nghèo nàn nhất. Khi tiếp xúc
với những người thiếu thốn mọi sự thì công tác phục vụ là nghĩa cử thiện nguyện cao
cả nhất. Phó tế không chờ đợi đáp trả nhưng cùng lúc lại nhận được rất nhiều.
Một hôm trên đường đi công tác nghề nghiệp tôi dừng lại thăm viếng một nữ nông dân
cao tuổi vừa mất người chồng thân yêu. Chúng tôi trải qua những giây phút đầm ấm bên
nhau và gợi lại hình ảnh hiền phu quá cố của bà cũng như nói về cuộc đời ông bà và
về gia đình của cả hai chúng tôi. Khi từ biệt bà, một niềm vui lớn lao xâm chiếm lòng
tôi. Tôi đến an ủi bà nhưng có lẽ chính bà lại mang đến cho tôi nhiều niềm vui hơn.
Đây là những kinh nghiệm mà mỗi người đều có thể làm mỗi ngày và đó là kinh nghiệm
minh chứng niềm vui nào chúng ta cảm nhận được khi chúng ta thật lòng phục vụ người
thân cận với trọn tâm tình đơn sơ.
... ”Nếu con làm việc thiện, thì hãy
biết con làm cho ai, và con ở hiền thì sẽ gặp lành. Hãy làm việc thiện cho người
đạo hạnh, con sẽ được đền đáp, nếu không do người ấy, thì cũng do Đấng
Tối Cao. Sẽ chẳng có chi may lành cho kẻ ngoan cố trong điều ác, cho kẻ không thích
làm việc từ thiện. Hãy cho người đạo hạnh, nhưng đừng giúp kẻ tội lỗi.
Hãy xử tốt với người khiêm tốn, và đừng ủng hộ quân vô đạo, hãy
khước từ, đừng cung cấp bánh cho nó ăn, kẻo nó được đàng chân lân đàng đầu;
con sẽ gặp hoạn nạn gấp đôi, đối lại tất cả những việc lành con đã làm cho
nó. Vì chính Đấng Tối Cao cũng gớm ghét phường tội lỗi, Người sẽ trừng phạt
để trả oán quân vô đạo. Hãy cho người tốt, nhưng đừng giúp người
tội lỗi” (Huấn Ca 12,1-7).
(”Au Service de l'Église”, No 260,
Janvier-Février-Mars 2013, trang 9-12)