Người tôi tớ khổ đau là Con Thiên Chúa trong giáo huấn của Thánh Kinh Tân Ước
Giáo huấn của Thánh Kinh Tân Ước vén mở cho chúng ta thấy Người tôi tớ khổ đau của
Giavê Thiên Chúa, mà ngôn sứ Isaia miêu tả trong Thánh Kinh Cựu Ước, là Đức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa nhập thể làm người.
Khi đọc các Phúc Âm, chúng ta nhận
ra ngay một nét đặc thù rất đẹp trong cuộc sống và cung cách hành xử của Đức Giêsu:
đó là Người rất thương xót các kẻ tội lỗi. Chính vì thế Chúa Giêsu tiếp xúc với họ,
đến gần họ, tìm gặp họ, đi theo họ. Đó là điều không có rabbi do thái nào đã làm.
Trái lại các rabbi do thái khinh rẻ, kinh tởm, xa lánh và kết án những người tội lỗi.
Kể lại biến cố Chúa Giêsu kêu gọi ông Lêvi người thu thuế tại Capharnaum, tức là thánh
sử Mátthêu sau này, thánh sử Marcô viết trong chương 2: ”Đức Giêsu lại đi ra bờ biển
hồ. Toàn thể dân chúng đến với Người và Người dạy dỗ họ. Đi ngang qua trạm thu thuế
Người thấy ông Lêvi là con ông Alphê đang ngồi ở đó. Người bảo ông: ”Hãy theo Ta.”
Ông đứng dậy đi theo Người. Người đến dùng bữa tại nhà ông. Nhiều người thu thuế và
người tội lỗi cùng ăn với Đức Giêsu và các môn đệ: con số họ đông và họ đi theo Người.
Những kinh sư thuộc nhóm Pharisêu thấy Người ăn uống với những kẻ tội lỗi và người
thu thuế, thì nói với các môn đệ Người: ”Sao Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân
tội lỗi!”. Nghe thấy thế, Đức Giêsu nói với họ: ”Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc,
người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người
tội lỗi” (Mc 2,13-17).
Chính vì đến để cứu vớt người tội lỗi nên Tin Mừng
Chúa Giêsu rao giảng là tin mừng kêu mời sám hối và tha tội. Thánh sử Marcô kể lại
rằng: ”Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilea rao giảng Tin Mừng của
Thiên Chúa. Người nói: ”Thời kỳ đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy
sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,14-15).
Lời loan báo này nằm trong cùng
chiều hướng các giáo huấn và lời rao giảng của các ngôn sứ thời cựu ưởc, vì nó luôn
luôn đi kèm lời mời gọi kẻ tội lỗi hoán cải, đổi đời, bỏ đàng tội lỗi và trở về với
Thiên Chúa. Nó chuẩn bị cho tâm hồn con người tiếp nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa,
để cho Người hành động và tiếp nhận Nước Người (Mc 1,15). Tuy quyền năng nhưng Chúa
Giêsu luôn luôn tôn trọng sự tự do của con người. Người đề nghị và mời gọi chứ không
bao giờ bắt buộc con người chấp nhận ơn cứu rỗi. Vì thế khi con người cố ý khước từ
ánh sáng cứu độ, hay tưởng mình không cần được tha thứ, Chúa Giêsu cũng phải buồn
lòng thua chịu. Mọi tội lỗi của loài người đều được tha, nhưng tội nói pham đến Thánh
Thần tức khước từ sự thật, sẽ không được tha: ”Tôi bảo thật anh em: mọi tội của con
cái loài người, kể cả tội nói phạm thượng, và nói phạm thượng nhiều đến mấy đi nữa,
thì cũng còn được tha. Nhưng ai nói phạm đến Thánh Thần, thì chẳng đời nào được tha,
mà còn mắc tội muôn đời”. Đó là vì họ đã nói ”Ông ấy bị thần ô uế ám” (Mc 3,28-30).
Dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế cùng vào cầu nguyện trong Đền Thờ cho thấy
điều đó. Ông Pharisêu cầu nguyện bằng cách khoe khoang cách sống của mình là không
tham lam, bất chính, ngoại tình, hay như tên thu thuế kia. Ông ăn chay tuần hai lần,
dâng cho Chúa một phần mười thu nhập. Trong khi người thu thuế đứng đàng xa, thậm
chí chẳng dám ngước mắt lên trời, mà chỉ đấm ngực thưa rằng: ”Lậy Thiên Chúa, xin
thương xót con là kẻ tội lỗi” Ông ra về và được trở nên công chính, còn người Pharisêu
thì không (Lc 18,9-14).
Chúa Giêsu rất thương xót các tội nhân, nhưng Người
mạnh mẽ tố cáo thái độ sống giả hình của các kinh sư và các Pharisêu. Họ là những
người giảng dạy nhưng không thực thi những điều giảng dạy, thích được trọng vọng,
tâng bốc, bái chào, ăn trên ngồi trốc. Họ không muốn vào Nước Trời, nhưng cũng ngăn
cản không để cho ai vào. Họ nuốt hết tài sản của các bà góa, nhưng làm bộ đọc kinh
cầu nguyện lâu giờ. Họ rảo khắp mặt đất để rủ một người theo đạo, nhưng lại làm cho
họ đáng xuống hỏa ngục gấp đôi. Họ nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng,
nhưng lại bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành
tín. Họ rửa sạch chén đĩa bên ngoài, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc
và ăn chơi vô độ. Họ giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong
thì đầy xương người chết hôi thối và đủ mọi thứ ô uế. Họ xây mồ mả cho các ngôn sứ
mà cha ông ông họ đã sát hại. Và Chúa Giêsu gọi họ là ”đồ mãng xà, loài rắn độc” (Mt
23,8-33). Người môn đệ Chúa Giêsu thì phải ăn ở công chính hơn các kinh sư và người
Pharisêu thì mới được vào Nước Trời (Mt 5,20). Nhưng nhất là phải biết suy tư và hành
xử theo gương sống của chính Chúa Giêsu, để hiểu yêu thương có nghĩa là gì, và tội
lỗi là gì khi nó là sự khước từ tình yêu thương.
Tuy nhiên, mạc khải gây ngạc
nhiên nhất là lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, mà chính
Chúa Giêsu đã diễn tả qua các tâm tình, các lời giảng dậy và hành động của Người.
Điển hình như biến cố một phụ nữ tội lỗi trong thành khi nghe biết Chúa Giêsu đến
dùng bữa ở nhà ông Simon người Pharisêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu
thơm, khóc trên chân Người, rồi lấy tóc mà lau và xức dầu thơm trên chân Chúa. Biết
ông khó chịu vì cảnh chướng tai gai mắt này, Chúa Giêsu nói với ông: “Ông thấy người
phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã ông cũng không đổ lên chân Tôi, còn chị ấy
đã lấy nước mắt tưới ướt chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn Tôi một
cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân Tôi. Dầu ô liu ông cũng không
đổ trên đầu Tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân Tôi. Vì thế Tôi nói cho
ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cứ là chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít, thì yêu mến ít”. Rồi Đức Giêsu nói với người phụ nữ: ”Tội của
chị đã được tha rồi. Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an” (Lc 7, 36-50).
Chúa Giêsu không bỏ lỡ dịp nào mà không cống hiến cho người tội lỗi cơ may gặp Người
và đón tiếp Người để được ơn cứu rỗi. Đó đã là điều xảy ra
với ông Dakêu, quan
thuế vụ thành Giêricô. Ông rất muốn trông thấy Chúa Giêsu, nhưng đám đông theo Người
vòng trong vòng ngoài, mà ông lại là người thấp bé. Vì thế ông nghĩ ra một cách tuyệt
vời là chạy đi trước, trèo lên cây sung để có thể nhìn thấy Người. Khi đi ngang qua
đấy, Chúa Giêsu mhìn lên và nói với ông: ”Này ông Dakêu xuống mau đi, vì hôm nay Tôi
phải ở lại nhà ông.” Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón tiếp Người. Thấy vậy mọi
người xầm xì với nhau: ”Nhà người tội lỗi mà Ông Ấy cũng vào trọ!” Ông Dakêu đứng
đó thưa với Chúa rằng: ”Thưa Ngài, đây phân nửa gia tài của tôi, tôi cho người nghèo;
và nếu tội đã chiếm đoạt của ai cài gì, tội xin đền gấp bốn.” Đức Giêsu nói với ông
rằng: ”Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ
Abraham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,1-10).
Để
minh giải lòng xót thương của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi, đối với những
gì đã lạc mất, chương 15 Phúc Âm thánh Luca kể lại ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng
bạc bị mất và nhất là dụ ngôn người con hoang đàng. Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành
bỏ 99 con chiên để lặn lội đi tìm con chiên lạc. Người giống như người đàn bà đánh
mất một đồng bạc, đốt đèn quét dọn nhà cửa và mọi ngõ ngách cho tới khi tìm thấy đồng
bạc, rồi gọi hàng xóm tới chung vui. Ngài như người cha già yêu thương, tôn trọng
cả hai đứa con, dù thấy không đứa nào có được các suy tư, tâm tình và con tim yêu
thương của mình. Khi thấy đứa con thứ đi hoang trở về, ông chạy ra đón con, ngã vào
lòng nó, ôm lấy cổ con mà hôn lấy hôn để, rồi vui mừng sai gia nhân lấy giầy mới ra
xỏ cho cậu, lấy áo đẹp ra mặc cho cậu và đeo nhẫn vào tay cho cậu. Không một lời than
trách, mắng chửi, đã thế ông lại còn sai đầy tớ bắt bê béo mở tiệc ăn mừng nữa, vì
con ông đã mất nay lại tìm thấy, đã chết nay đã sống lại. Khi biết chuyện, người anh
cả ghen tức với em, giận hờn kể công, trách móc cha già và không muốn vào nhà dự tiệc
vui mừng em trở về. Người cha già chạy ra năn nỉ anh vào chung vui với gia đình, vì
người em đã trở về bằng an. Và không ai biết câu chuyện đã kết thúc ra sao. Thiên
Chúa cũng là người cha phung phí tình yêu đối với loài người tội lỗi bất toàn như
vậy.
Chính vì thế Chúa Giêsu đã tóm tắt tất cả Lề Luật và giáo huấn của các
ngôn sứ thời cựu ước vào một giới răn duy nhất là ”Mến Chúa yêu người”. Và Người dậy
các môn đệ: ”Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho mình, thì chính các
con hãy làm cho người ta, vì Luật Môshê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12). Trong
Bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu còn căn dặn các môn đệ ở lại trong tình thương của Người và
giữ các điều răn của Người, và nói: ”Đây là điều răn của Thầy: các con hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12).
Chính tình yêu thương đó
khiến cho con tim Chúa Giêsu phải quặn thắt, khi trông thấy những người ốm yếu tật
nguyền già cả, khi chứng kiến cảnh dân chúng đói phần xác và đói phần hồn lang thang
theo Người để nghe Người giảng dậy. Và Chúa Giêsu đã rao giảng Tin Mừng Nước Trời
cho họ, làm phép lạ chữa lành tật bệnh trên thân xác cũng như trong tâm hồn và hóa
bánh ra nhiều để nuôi họ.
Nhưng cũng chính tình yêu và lòng thương xót đó
của Chúa Giêsu đối với những người bệnh tật và những kẻ tội lỗi sẽ trở thành cớ cho
những kẻ chống đối Người, cho các thượng tế, ký lục và người Pharisêu ghen ghét bắt
bẻ, lên án và tìm cách giết Người.