Vai trò của Kinh Mân Côi trong các cuộc chiến chống lại âm mưu xâm lăng Âu châu của
đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ
Khi tìm hiểu lịch sử Kinh Mân Côi người ta không thể không chú ý tới tầm quan trọng
của nó đối với lịch sử Giáo Hội nói riêng và lịch sử của toàn Âu châu nói chung. Đó
là qua Kinh Mân Côi và nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria, liên minh Kitô đã chiến
thắng quân hồi của đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ trong vịnh Lepanto năm 1571, và chiến
thắng của vua Ba Lan Jan Sobieski chống lại quân hồi tại Vienne bên Áo năm 1683.
Vào thế kỷ XVI đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ rất hùng mạnh. Các đạo binh Hồi đánh
đâu thắng đó và người Hồi đã chiếm nhiều nơi như Constantinopoli, Belgrad và Rodi.
Họ muốn đánh chiếm toàn Âu châu và tiến về Roma. Các đe dọa nghiêm trọng này khiến
cho Đức Giáo Hoàng Pio V rất âu lo. Một đàng người cho xây các tháp canh dọc bờ biển
để che chở Roma, đàng khác Đức Pio V huy động một liên minh Kitô quy tụ binh sĩ, thủy
thủ và các chiến thuyền dưới cờ Thánh Giá. Liên Minh bao gồm Tây Ban Nha, Cộng hòa
Venezia, nước Vaticăng, các Cộng Hòa Genova và Lucca, các Hiệp sĩ Nalta, gia đình
Farnese Parma, gia đình Gonzaga Mantova, người Estensi Ferrara, gia đình Della Rovere
thành Urbino, quận công Savoia và đại quận công Toscana.
Nhưng nhất là Đức
Pio V tha thiết kêu gọi toàn thể Giáo Hội lần hạt Mân Côi, tham dự các cuộc rước kiệu
công khai và hãm mình đền tội, khẩn nài sự trợ giúp của Mẹ Maria.
Các hạm
đội Kitô bao gồm các chiến thuyền giáo hoàng, của Tây Ban Nha, Cộng hòa Venezia, Genova,
Napoli, Toscana, Malta, trong khi người Pháp hiện diện với một số hiệp sĩ thiện nguyện.
Vua Giovanni nước Áo chỉ huy các chiến thuyền Kitô. Tổng cộng có tất cả 210 chiến
thuyền, 350 khẩu cà nông lớn và loại trung, và 2.750 khẩu loại nhỏ, 20.000 binh sĩ,
12.900 thủy thủ và 43.500 người chèo thuyền. Đa số lực lượng này do các nước độc lập
và các nước bị thống trị của Italia cung cấp, bao gồm 178 chiến thuyền, 1.277 khẩu
cà nông, 20.000 binh sĩ, 11.220 thủy thủ, và 37.300 người chèo thuyền. Tất cả số còn
lại là của Tây Ban Nha.
Sau khi biết rõ các chiến thuyền của quân Hồi Thổ
Nhĩ Kỳ nằm trong vịnh Lepanto, sáng ngày mùng 7 tháng 10 năm 1571 các chiến thuyền
Kitô tiến vào vịnh Lepanto. Phía đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ ra dàn trận chia làm ba
cánh: chính giữa do đề đồc Alì Pascìa chỉ huy gồm 90 chiến thuyền; đàng sau là 10
chiến thuyền và 60 thuyền nhỏ do Dragut chỉ huy; cánh phải do Mehemet Sciaurak, Phó
vương Ai Cập chỉ huy gồm 55 chiến thuyền; và cánh trái do Ulugh Alì nước Algeria chỉ
huy gồm 90 chiến thuyền. Tổng cộng có khoảng 25.000 binh sĩ, 40.000 người chèo thuyền,
180 khẩu cà nông loại lớn và trung bình và 2.700 khẩu loại nhỏ.
Phía các chiến
thuyền của liên minh Kitô dàn trận dài hơn ba hải lý. Chính giữa gồm 61 chiến thuyền
do Giovanni nước Áo thống lĩnh; đàng sau là 38 chiến thuyền khác do Santa Cruz điều
khiển. Cánh phải của liên minh Kitô gồm 53 chiến thuyền của hoàng gia Tây Ban Nha
do Gian Andrea Doria thống lĩnh. Cánh trái cũng gồm 53 chiến thuyền Venezia do Agostino
Barbarigo chỉ huy. Trong số các chiến thuyền tham gia trận đánh có các chiến thuyền
giáo hoàng do Marcantonio Colonna chỉ huy; các chiến thuyền Savoia do Provana cầm
đầu; các chiến thuyền của cộng hòa Venezia do Sebastiano Vernier chỉ huy; rồi các
chiến thuyền của cộng hòa Genova dưới quyền chỉ huy của Ettore Spinola và Alessandro
Farnese.
Trận chiến bắt đầu vào khoảng giữa trưa, sau khi binh sĩ qùy cầu
nguyện lãnh phép lành và nghe loan báo ơn toàn xá do Đức Giáo Hoàng Pio V ban cho
mọi người. Các chiến thuyền của quân hồi tiên lên thành hình vòng cung, cố ý bao vây
các chiến thuyền Kitô. Lợi dụng có gió mạnh các chiến thuyền của Alì Pascìa nổi trống,
não bạt và thổi sáo tấn công Giovanni nước Áo. Phía các thuyền liên minh Kitô hoàn
toàn thinh lặng.
Khi các thuyền quân Thổ đến vừa tầm bắn, Giovanni mới ra
lệnh kéo cờ dựng Thánh Giá và nhả đạn. Gió đổi chiều các chiến thuyến Kitô tiến mạnh.
Và thế là trận chiến bùng nổ khắp nơi dọc chiến tuyến. Súng cà nông của cả hai bên
nhắm vào nhau nhả đạn. Cánh trái của liên minh Kitô ban đầu bị yếu thế vì Bargarigo
bị trúng đạn, tuy được Camillo da Correggio cứu viện.
Nhưng khi được quận
công Santa Cruz tiếp cứu các chiến thuyền Kitô lại vùng lên tấn công. Chiến thuyền
của Mehemet Sciaurak bị trúng đạn, ông ta bị bắt và bị chặt đầu. Chiến thuyền của
Alí Pascià cũng bị trúng đạn khiến Ali Pascià cũng bị tử thương và bị chặt đầu. Các
chiến thuyền Tây Ban Nha ở cánh phải do Gian Andrea Doria chỉ huy không muốn tấn công,
vì lệnh của vua Philippo II muốn đánh Tunisia và dàn xếp ngầm với Ulugh Alì nhằm tách
Ulugh khỏi Constantinopoli. Do đó Uglugh Alì cũng tránh giao tranh, vì muốn duy trì
lực lượng toàn vẹn hầu bảo vệ bờ biển Algeria trong trường hợp bị Tây Ban Nha tấn
công.
Tuy nhiên, một phần của cánh phải gồm các chiến thuyền của Cộng hòa
Venezia, của Giáo Hoàng, của người Piemonte và Malta muốn tấn công Ulugh Alì, nên
tách rời khỏi các chiến thuyền của Cộng hòa Genova và tấn cộng các chiến thuyền của
quân hồi, nhưng họ lâm tình trạng yếu thế. Thấy vậy, các chiến thuyền Kitô cánh giữa
do Giovanni nước Áo và Marcantohnio Colonna chỉ huy, liền cứu viện. Gioan Andrea Doria
bị bó buộc phải quay lại đánh nhau với hạm đội Algeria. Ulugh Alì sợ bị bao vây nên
bỏ trận chiến và các chiến thuyền Kitô bị bắt giữ, rồi cùng với các chiến thuyền của
mình chạy trốn về Constantinopoli. Thế là chỉ sau 4 giờ giao tranh quân hồi đại bại,
và Âu châu thoát hiểm họa bị đế quốc Ottoman thôn tính.
Nhưng cuộc chiến thảm
khốc đã gây ra các tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Phía quân hồi đã có 30.000 người
bị thương và bị chết cùng với đô đốc Alí Pascìa và phó vương Mehemet Sciaurak và nhiều
thuyền trưởng; 8.000 binh sĩ bị bắt làm tù binh; 15.000 nô lệ Kitô được giải phóng.
Bên cạnh đó là 53 chiến thuyền bị đắm, 50 chiến thuyền bị đụng đá ngầm, bị cưởp phá
và đốt cháy, và 137 chiến thuyền lớn nhỏ bị bắt. Phía liên minh Kitô có 7.500 binh
sĩ và thủy thủ tử trận, trong đó có 2.300 binh sĩ và thủy thủ Venezia, cùng với đô
đốc Barbarigo và 26 nhà qúy tộc; 7.744 binh sĩ và thủy thủ bị thương, trong đó có
ông Cevantes, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Don Chisciotte. Phía liên minh Kitô
bị chìm mất 15 chiến thuyền.
Tuy tin thắng trận chưa về tới Roma vì các chiến
thuyền Kitô phải trốn một trận bão, nhưng Đức Pio V đã được thị kiến nên cho đánh
chuông mọi nhà thờ ở Roma và loan tin liên minh Kitô thắng trận.
Chiến thắng
của liên minh Kitô chống lại quân Hồi thuộc đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ tại Lepanto
ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã khiến cho việc lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ lan tràn mạnh
mẽ hơn nữa. Đức Giáo Hoàng Piô V đã thêm vào kinh cầu Đức Bà tước hiệu ”Đức Bà phù
hộ các Kitô hữu” và thành lập lễ nhớ Đức Bà Chiến Thắng, vì tin rằng chính nhờ tín
hữu sốt sắng lần hạt Mân Côi, đi kiệu và hãm mình đền tội, nên Đức Mẹ đã bầu cử và
phù giúp liên minh Kitô chiến thắng tại Lepanto. Năm sau đó 1572 Đức Giáo Hoàng Gregorio
XIII ký tự đắc ”Monet Apostolus” thành lập lễ trọng kính Đức Bà Mân Côi, đưa vào lịch
phụng vụ và chỉ định mừng ngày mùng 7 tháng 10.
Chiến thắng cuối cùng chống
lại quân Hồi cứu vãn Âu châu khỏi mưu toan xâm lăng xảy ra đúng 112 năm sau, tức năm
1683.
Hồi đó nước Áo bị xâm lăng bởi đạo binh Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ, do Kara
Mustapha Pasha thống lĩnh. Đạo quân hồi hùng hậu gồm 140.000 người bắt đầu bao vây
thủ đô Vienne ngày 14 tháng Bẩy năm 1683. Cũng như 112 năm trước, lần này đế quốc
Ottoman muốn tiến chiếm Âu châu, nhưng bằng đường bộ, với dự định là sau khi hạ thành
Vienne họ sẽ tiến chiếm Pháp rồi từ đó thanh toán toàn Âu châu.
Tin quân Hồi
tiến đánh thành Vienne khiến cho triều đình hoảng sợ chạy trốn. Nhưng Quận công Ernst
Ruediger von Starhemberg chỉ huy đạo quân 20.000 người của thành Vienne, nhất định
tử thủ để bảo vệ thành. Trong khi Hoàng đế Leopoldo I (1640-1705) trốn đến Passavia
và điều khiển sinh hoạt ngoại giao, được Đức Giáo Hoàng Innocenzo XI ủng hộ, nhằm
cứu vãn tình hình, bằng cách xin các vua Kitô Âu châu gửi quân cứu viện.
Hoàng
đế và giới lãnh đạo tôn giáo cũng phát động chiến dịch lần hạt cầu khẩn sự trợ giúp
của Đức Bà Mân Côi. Các tướng lãnh quân liên minh Kitô chọn vua Jan Sobieski của Ba
Lan để điều khiển đạo binh các nước Kitô gồm 30.000 người Ba Lan, 18.50 người Áo và
Italia, 19.000 người Franchi, Thụy Sĩ và vùng Bavière, 9.000 người Sasson, tổng cộng
tất cả khoảng 75-80 ngàn người.
Quận công Ernst Ruediger von Starhemberg ra
lệnh phá hết mọi nhà chung quanh thành Vienne để không có chỗ trú ẩn cho những toán
quân Hồi muốn tới gần tường thành. Vì tường thành Vienne rất chắc chắn nên các súng
cà nông cũ kỹ của quân Thổ không có sức công phá, Kara Mustapha Pasha phải cho đào
nhiều đường hầm tới gần tường để đặt mìn dưới chân tường. Cuộc bao vây đã rất cam
go gây ra bệnh tật, đói khát cũng như dịch kiết lỵ cho dân thánh phố cũng như cho
quân Thổ Nhĩ Kỳ.
Ngày 11 tháng 9 các đạo quân thuộc liên minh Kitô tụ họp
nhau tại núi Kahlenberg, tham dự thánh lễ rồi xuất quân. Mustapha Pasha hy vọng triệt
hạ Vienne sớm, nên đặt các toán quân thiện chiến ở gần tường thành, trong khi các
toán ô hợp ở lại vòng ngoài, và nhất là ông không muốn đối đầu với đạo quân liên minh
đang ngày càng tiến tới gần thành Vienne. Đạo binh liên minh gặp khó khăn vì nói nhiều
thứ tiếng khác nhau và không hiểu nhau. Nhưng khi vua Jan III Sobieski ra lệnh cho
các đoàn kỵ binh Ba Lan đồng loạt tấn công đạo binh Thổ tan rã chạy tán loạn. Chính
lúc đó các đạo quân trong thành tiến ra truy nã quân Thỗ. Đã có 15.000 binh sĩ thổ
tử trận, trong khi phía liên minh Kitô có 2.000 người chết.
Một lần nữa việc
lần hạt Mân Côi đã cứu Âu châu khỏi bị xâm lăng bởi đế quốc Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ.