Sau khi miêu tả diễn tiến nghi thức xức dầu cho bệnh nhân văn bản chương 5 thư thánh
Giacôbê trình bầy các hiệu qủa của bí tích này trên thân xác cũng như trong tinh thần.
Vì bản thể con người gồm thân xác và tinh thần nên bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân cũng
tác động trên sức khỏe vật lý cũng như sức khỏe tinh thần, như đã viết: ”Lời cầu nguyện
do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được Chúa nâng dậy và nếu người ấy đã phạm
tội, thì sẽ được Chúa thứ tha” (Gc 5,15). Ở đây chúng ta thấy tác giả của thư nhấn
mạnh trên chiều kích của đức tin ”Lời cầu nguyện được làm với đức tin”, hầu như để
nêu bật rằng tất cả đều nhận lãnh giá trị chiều kích của lòng tin.
Đây không
phải là một lễ nghi ảo thuật, cũng không phải là một giàn dựng để tạo ra một ảnh hưởng
tâm lý tốt. Việc xức dầu thánh hiệp với lời cầu nguyện có đức tin của toàn cộng đoàn,
được diễn tả ra bởi các ”trưởng lão”, tức các linh mục, có quyền năng ”chữa lành”
người bệnh do sức mạnh Thiên Chúa ban.
Và sự cứu rỗi đầu tiên hướng tới thân
xác như văn bản nói rõ: ”Lời cầu nguyện do lòng tin sẽ cứu người bệnh; người ấy được
Chúa nâng dậy”. Động từ ”nâng dậy” ám chỉ việc người bệnh chỗi dậy khỏi giường, nơi
người ấy phải nằm “kámnonta” nghĩa là nằm dài ra vì đau yếu. Việc cứu rỗi thứ hai
là giải thoát người bệnh khỏi tội lỗi, nếu người bệnh đã ở trong tình trạng ấy: ”Và
nếu người ấy đã phạm tội, thì sẽ được Chúa thứ tha”. Sự giải thoát gồm hai chiều kích
như thế do tương quan mà Thánh Kinh thường trông thấy giữa bệnh tật và tội lỗi. Theo
quan niệm kinh thánh bệnh tật là hậu qủa của tội lỗi, không phải trong các trường
hợp riêng rẽ, nhưng như tình trạng chung của nhân loại. Đó là ý nghĩa điều thánh Phaolô
khẳng định trong chương 5 thư gửi tín hữu Roma: ”Vì một người duy nhất mà tội lỗi
đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế sự chết đã lan tràn tới
mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5,12).
Tội lỗi khiến cho linh
hồn con người bị hoen ố và bệnh hoạn, vì thế tình trạng tội lỗi này cũng ảnh hưởng
trên tinh thần và thân xác con người, khiến cho chúng bị yếu nhược. Đây là kinh nghiệm
mà tất cả mọi người đều sống và cảm nghiệm, thường khi trong tình trạng vô thức. Nhưng
nó cũng là điều được chứng minh bởi các ngành y khoa, tâm lý và phân tâm ngày nay.
Lý do là vì bản thể con người bao gồm ba chiều kích thân xác, tâm lý và tinh thần:
soma, psiche và pneuma; nói một cách ngắn gọn là bao gồm xác và hồn, có tương quan
mật thiết với nhau, nên ảnh hưởng trên nhau.
Tất cả những gì chúng ta đã nói
không có nghĩa là việc xức dầu thánh phải ”luôn luôn” đem lại tất cả các hiệu qủa
mà chúng ta đã nhắc tới, bởi vì ý muốn của Thiên Chúa, mà sự sống và cái chết của
chúng ta tùy thuộc, cũng có thể sắp xếp một cách khác. Nhưng điều này không lấy mất
đi giá trị của lễ nghi xức dầu thánh cho bệnh nhân, bởi vì nó sẽ luôn luôn có hiệu
qủa là thanh tẩy linh hồn và thần trí chúng ta khỏi tội lỗi, và khiến cho chúng ta
ngoan ngoãn vâng theo ý muốn của Thiên Chúa, khiến cho chúng ta chấp nhận sự đau khổ
và chính cái chết như là hiến lễ cao cả của tình yêu dâng lên Thiên Chúa, như chính
Đức Giêsu đã làm trên thập giá.
Trong cách thế như vậy chúng ta không nhận
chịu cái chết, mà là những người chủ động biến cái chết thành một hành động của sự
sống, bằng cách tự chuộc mình khỏi các nỗi sợ hãi và khỏi cả sự nổi loạn trước điều
xem ra chỉ là một sự thất bại trong kinh nghiệm thân phận làm người của chúng ta.
Như vậy bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân là ”một phương thế trợ giúp thân xác và linh hồn
của mọi Kitô hữu, mà tình trạng sức khỏe bị hao mòn bởi bệnh tật hay tuổi già. Hai
yếu tố xác hồn luôn luôn đi đôi và gắn liền với nhau trong bản chất, phải được chú
ý, nếu chúng ta muốn hiểu dấu chỉ và ơn thánh của việc xức dầu bệnh nhân. Thật thế,
bệnh tật vật lý khiến cho sự giòn mỏng tinh thần của mọi Kitô hữu trở thành trầm trọng
hơn, và nếu không có ơn thánh Chúa, nó có thể dẫn đưa tới chỗ khép kín ích kỷ trong
chính mỉnh, hay tới thái độ nổi loạn chống lại sự quan phòng, hoặc tới độ dẫn đưa
đến nỗi tuyệt vọng (CEI, Việc rao giảng Tin Mừng và bí tích Xức dầu bệnh nhân, 1974
s. 140).
Văn bản chương 5 thư thánh Giacôbê không nói tới Bí tích Xức Dầu
Bệnh Nhân, nhưng chỉ đề cập tới lễ nghi xức dầu và cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy
nhiên, chúng ta có tất cả các yếu tố tạo thành một bí tích đích thật: các linh mục,
các vị thừa tác của Chúa là những người ban bí tích; các bệnh nhân là những người
lãnh nhận bí tích; lễ nghi bao gồm các yếu tố vật chất là xức dầu ô liu, và các yếu
tố tinh thần là lời cầu nguyện của vị thừa tác và cộng đoàn; và các hiệu qủa nhằm
đạt được là ơn lành bệnh trên thân xác và ơn tha tội trong linh hồn cho người bệnh
được xức dầu; và yếu tố cần thiết nhất là phải có là đức tin.
Chính vì thế
Công Đồng Chung Trento có lý, khi chống lại lập trường của các tín hữu Tin Lành, và
thiết định rằng đây là một bí tích đích thực ”do Đức Kitô Chúa chúng ta thành lập”
(x. Mc 6,13) và được thánh Giacôbê tông đồ công bố” (Gc 5,14), và nó không chỉ là
một lễ nghi nhận được từ truyền thống giáo phụ hay của một sáng chế loài người nào
(x. DS 1716).
Ở đây không cần thiết phải bước vào trong việc nghiên cứu tường
tận các lý lẽ thần học. Nhưng điều cấp thiết là phải tái khám phá ra ý nghĩa sâu xa
của bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân, vì nó không chỉ giúp chúng ta tái khám phá ra ý nghĩa
của bệnh tật, khổ đau và cái chết, trong một thời đại mà con người có khuynh hướng
tầm thường hóa, hay một cách đơn sơ sinh học hóa các sự kiện gây ra chấn thương tinh
thần; nhưng nó cũng còn giúp chúng ta tái khám phá ra sứ mệnh của Chúa Kitô là ”thầy
thuốc” của thân xác và linh hồn con người, như các Phúc Âm đã trình bầy.
Nhưng
bí tích Xức Dầu Bệnh Nhân là bí tích cần được đào sâu và giải thích nhiều hơn nữa
để giúp Kitô hữu sống bệnh tật, khổ đau và cả cái chết một cách nghiêm chỉnh và sâu
đậm hơn. Chính vì thế thật là ý nghĩa, khi tìm hiểu bệnh tật từ quan điểm nhân chủng
học, không chỉ như là tình trạng hư hỏng các cơ cấu và nhiệm vụ của một hay nhiều
cơ phận trong thân thể con người; nhưng còn là tình trạng hạn chế, điều kiện hóa thái
độ con người sống kinh nghiệm đặc biệt về chính mình và các tương quan với thế giới
nữa.
Thật vậy, người bệnh sống một kinh nghiệm về sự tha hóa khỏi chính thân
thể của mình. Nó ”làm đau” cho con người, nó không tuân lệnh nữa, và nó khiến cho
bệnh nhân cảm thấy trước rằng mình có thể chết. Ngoài ra người bệnh cũng bị tha hóa
với chính môi trường sống của mình, vì bị tách rời khỏi các tương quan bình thường
trong môi trường gia đình, nghề nghiệp, học đường, sinh hoạt và giải trí vv.... Họ
bị tách rời khỏi các người khác, cần đến người khác nhiều hơn trước, không làm gì
được để đổi lại các phục vụ ấy của tha nhân, và không thể tránh né các phục vụ ấy
đến độ phải nhận ra rằng mình ở trong tình trạng hoàn toàn tùy thuộc người khác. Sau
cùng bệnh nhân phải sống kinh nghiệm của sự hạn chế, nghĩa là thấy mình ở trước một
bức tường mà không thể ủi sập được, trong một tình trạng khó chịu đau đớn, mà ít nhất
trong lúc này đây không thể loại bỏ được. Và như thế người bệnh sờ mó được các hạn
hẹp, sự giòn mỏng, bất lực, và tính cách tương đối, ngẫu nhiên của mình.
Tuy
nhiên, bên cạnh các yếu tố tiêu cực ấy cũng có các khía cạnh tích cực. Người bệnh
bị thách đố có một ý niệm thực tế hơn và sâu xa hơn về chính mình. Sự hạn hẹp của
tương lai tương đối quy chiếu họ về tương lai tuyệt đối, và cái bất bình thường của
việc sát nhập vào trong thế giới tự tại nhắc nhở họ phải chú ý tới sự cần thiết tìm
kiếm một hướng đi mới để tiến tới sự siêu việt, cho phép chống trả lại bệnh tật, trong
nghĩa có thể thắng vượt nó và chấp nhận nó, khi không thể thắng vượt được nó. Các
hư hoại hay sự tắt lịm của ”các niềm hy vọng” là một sức đẩy rộng mở cho niềm ”hy
vọng”.
Trong tình trạng tiến bộ hiện nay của nhân loại, tất cả những điều
này có một tầm quan trọng lớn hơn trong qúa khứ. Vì trong các thế kỷ trước một bệnh
nặng chỉ kéo dài rất ít thời gian, vì nó mau chóng kết thúc với cái chết; trong khi
hiện nay tiến bộ của y khoa đã khiến cho các trường hợp bệnh nặng trở thành thường
xuyên và bệnh nhân có thể sống lâu hơn. Do đó họ cũng có nhiều thời gian và cơ may
hơn để hướng tới cuộc sống siêu việt, và có thể biến đổi ý nghĩa của bênh tật, khổ
đau và cái chết.