Mùa Chay là thời gian dấn thân để cho chân lý, đức tin và tình yêu thương trở thành
điều quan trong nhất
Trong Mùa Chay của Năm Đức Tin chúng ta hãy canh tân dấn thân trên con đường hoán
cải để vượt thắng khuynh hướng khép kín trong chính mình, và để dành chỗ cho Thiên
Chúa bằng cách nhìn thực tại hàng ngày với đội mắt của Người... Hoán cải có nghĩa
là không đóng kín trong việc tìm kiếm thành công, uy tín, địa vị riêng, nhưng làm
sao để chân lý, niềm tin nơi Thiên Chúa và tình yêu thương trở thành điều quan trong
nhất mỗi ngày.
Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với 8.000 tín hữu
và du khách hành hương năm châu. Trong số hàng trăm nhóm hành hương hiên diện có phái
đoàn 34 tín hữu Việt Nam Đan Mạch và Thụy Điển do Linh Mục Nguyễn Minh Quang hướng
dẫn. Bầu khí buổi tiếp kiến đã rất là cảm động vì tất cả mọi người hiện diện đều biết
rằng đây là lần cuối cùng họ gặp Đức Thánh Cha, một người cha chung rất hiền dịu và
khiếm tốn.
Vì hôm qua là Thứ Tư Lễ Tro, nên trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha
đã giải thích ý nghĩa của Mùa Chay Thánh, Ngài nói:
Hôm nay Thứ Tư Lễ Tro
chúng ta bắt đầu thời gian phụng vụ Mùa Chay bốn mươi ngày chuẩn bị cho chúng ta cử
hành Lễ Phục Sinh Thánh; nó là một thời gian dấn thân đặc biệt trên con đường thiêng
liêng. Số 40 được nói đến nhiều lần trong Thánh Kinh. Nó đặc biệt gợi lại bốn mươi
năm dân Israel du hành trong sa mạc: là một thời gian dài đào tạo để trở thành dân
Chúa, nhưng cũng là một thời gian, trong đó cám dỗ bất trung với giao ước với Chúa
luôn luôn hiện diện. Bốn Mươi cũng đã là các ngày ngôn sứ Elia đi để tới Núi của Thiên
Chúa, là núi Horeb, cũng như là thời gian Đức Giêsu sống trong sa mạc trước khi bắt
đầu cuôc sống công khai và là nơi Người đã bị quỷ dữ thử thách.
Trước hết
sa mạc là nơi Chúa Giêsu rút lui, là nơi của sự thinh lặng, nghèo nàn, nơi con người
không có các nâng đỡ vật chất, và đối diện với các vần đề nền tảng của cuộc sống,
được thúc đẩy chú ý tới điều nòng cốt, và chính vì thế nên con người dễ gặp gỡ Thiên
Chúa hơn. Nhưng sa mạc cũng là nơi của sự chết, bởi vì nơi đâu không có nước, thì
cũng không có sự sống, và là nơi của sự cô tịch, trong đó con người cảm thấy bị cám
dỗ mạnh mẽ hơn. Chúa Giêsu vào trong sa mạc, và ở đó Người chịu cám dỗ bỏ con đường
do Thiên Chúa Cha chỉ định để theo con con đường của trần gian dễ dãi hơn (x. Lc 4,1-13).
Như thế, Người gánh lấy các thử thách của chúng ta, mang lấy sự khốn nạn của chúng
ta, để chiến thắng kẻ dữ và mở ra cho chúng ta con đường hướng về Thiên Chúa, con
đường của sự hoán cải.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã suy tư về các cám dỗ mà Chúa
Giêsu phải đương đầu. Nó là tiếng mời gọi mọi người trả lời cho một câu hỏi nền tảng:
cái gì thực sự có giá trị trong cuộc sống chúng ta? Trong cám dỗ thứ nhất ma qủy đề
nghị Chúa Giêsu biến đá thành bánh ăn để dập tắt cái đói. Chúa Giêsu trả lời rằng
con người không chỉ sống nhờ bánh: không có một câu trả lời cho cái đói chân lý, đói
Thiên Chúa, con người không thể được cứu rỗi (x. cc. 3-4). Trong cám dỗ thứ hai ma
qủy đề nghị với Chúa Giêsu con đường của quyền bính: nó đưa Người lên cao và cống
hiến cho Người sự thống trị thế giới; nhưng đây không phải là con đường của Thiên
Chúa: Chúa Giêsu ý thức rõ ràng rằng không phải quyền bính trần gian cứu rỗi thế giới,
nhưng là quyền bính của thập giá, của sự khiêm nhường, của tình yêu thương ((cc. 5-8).
Trong cám dỗ thứ ba ma qủy đề nghị với Chúa Giêsu từ nóc Đền Thờ Giêrusalem gieo mình
xuống để khiến cho mình được Thiên Chúa nâng đỡ qua các thiên thần của Người, nghĩa
là hoàn thành một cái gì ngoạn mục để thử thách chính Thiên Chúa; nhưng câu trả lời
là Thiên Chúa không phải là một đối tượng mà chúng ta có thể áp đặt các điều kiện
của chúng ta: Người là Chúa của tất cả (x.cc. 9-12).
Đâu là nhân tố của ba
thử thách mà Chúa Giêsu phải chịu? Đó là đề nghị dùng Thiên Chúa như là dụng cụ, dùng
Người cho một đối tượng cho các lợi ích của chúng ta, cho vinh quang, và cho sự thành
công riêng của mình.
Và như vậy, trong nòng cốt, đó là tự đặt mình vào chỗ
của Thiên Chúa, bằng cách tháo gỡ Người ra khỏi cuộc sống của mình, và khiến cho Người
trở thành thừa thãi. Mỗi người phải tự hỏi: Thiên Chúa có chỗ nào trong cuộc sống
của tôi? Người là Chúa hay tôi là Chúa? Đức Thánh Gha giải thích việc lướt thắng các
cám dỗ như sau:
Thắng vượt cám dỗ đặt để Thiên Chúa bên dưới mình và các lợi
lộc riệng tư hay đặt để Người trong một xó và trở về với trật tự ưu tiên đúng đắn,
trả cho Thiên Chúa chỗ nhất, là một con đường mà mọi Kitô hữu phải luôn luôn đi trở
lại. Hoán cải, một lời mời gọi mà chúng ta sẽ lắng nghe nhiều lần trong trong Mùa
Chay, có nghĩa là theo Chúa Giêsu thế nào để Tin Mừng hướng dẩn cụ thể cuộc sống;
có nghĩa là để cho Thiên Chúa biến đổi chúng ta, thôi nghĩ rằng chúng ta là những
người duy nhất xậy dựng cuộc đời mình; có nghĩa là nhận biết rằng chúng ta là thụ
tạo, chúng ta tùy thuộc nơi Thiên Chúa, nơi tình yêu của Người, và chỉ khi ”mất đi”
cuộc sống trong Người, chúng ta mới có thể có được nó. Điều này đòi buộc chúng ta
phải có các lựa chọn dựa trên ánh sáng của Lời Chúa. Ngày nay, chúng ta không thể
là các Kitô hữu như là hậu qủa đơn thuần của sự kiện sống trong một xã hội có các
gốc rễ Kitô: cả người sinh ra từ một gia đình Kitô và được giáo dục tôn giáo cũng
phải canh tân sự lựa chọn là tín hữu Kitô mỗi ngày, dành chỗ nhất cho Thiên Chúa,
trước các cám dỗ mà một nền văn hóa tục hóa liên tục đề nghị mỗi ngày, trước phán
đoán phê bình của nhiều người đồng thời. Đức Thánh Cha nói về các cám dỗ mà Kitô hữu
phải đương đầu như sau:
Thật vậy, xã hội ngày nay đưa ra cho Kitô hữu biết
bao nhiêu thử thách, và chúng đụng chạm tới cuộc sống cá nhân và xã hội. Không dễ
mà trung thành với hôn nhân Kitô, thực thi lòng thương xót trong cuộc sống thường
ngày, dành khoảng trống cho lời cầu nguyện và sự thinh lặng nội tâm; không dễ mà công
khai chống lại các lựa chọn mà người ta coi như điều tự nhiên như phá thai trong trường
hợp không ước muốn mang thai, giết người êm dịu trong trường hợp các bệnh nặng, hay
tuyển lựa các phôi thai để ngăn ngừa các bệnh gia truyền. Cám dỗ gạt đức tin ra ngoài
luôn luôn hiện diện và việc hoán cải trở thành một câu trả lời cho Thiên Chúa, cần
được xác nhận nhiều lần trong cuộc sống.
Tiếp đến Đức Thánh Cha đã kể ra một
số các thí dụ chứng minh cho các cuộc hoán cải lớn: chẳng hạn như trường hợp của thánh
Phaolô trên đường đến thành Damasco, hay thánh Agostino. Nhưng ngay trong thời đại
suy thoái ý nghĩa của sự thánh thiêng ngày nay, ơn thánh Chúa vẫn hoạt động và làm
những điều kỳ diệu trong cuộc đời của biết bao nhiêu người. Chúa không mỏi mệt gõ
cửa lòng con người trong các bối cảnh xã hội và văn hóa xem ra bị sự tục hóa nuốt
trửng, như đã xảy ra cho Pavel Florenskij tín hữu chính thống Nga.
Được giáo
dục một cách vô ngộ hoàn toàn, đến độ thù nghịch với các giáo huấn tôn giáo, khoa
học gia Florenskij kêu lên: ”Không, không thể sống không có Thiên Chúa!”, và ông đã
hoàn toàn thay đổi cuộc sống tới độ trở thành một đan sĩ.
Thế rồi còn có gương
mặt của chị Etty Hillversum, một thiếu nữ Hòa Lan gốc Do thái chết trong trại tập
trung Auschwitz. Ban đầu chị sống xa Thiên Chúa, rồi khám phá ra Người, khi nhìn sâu
vào chính mình và viết: ”Một cái giếng rất sâu ở trong tôi. Và trong cái giếng ấy
có Thiên Chúa. Đôi khi tôi thành công trong việc đạt tới Người, nhưng thường hơn thì
đá cát che dấu Người: khi đó Thiên Chúa bị chôn vùi. Cần phải đào Người lên” (Nhật
Ký, 97). Trong cuộc sống tản mác và bất an, chị tìm lại được Thiên Chúa chính giữa
thảm cảnh lớn lao của cuộc diệt chủng Do thái Shoah của thế kỷ XX. Người thiếu nữ
mảnh khảnh và không được thỏa mãn này, đã được biến hình bởi đức tin, và trở thành
một phụ nữ tràn đầy tình yêu, an bình nội tâm, có khá năng khẳng định như sau: ”Tôi
sống liên lỉ trong sự thân tình với Thiên Chúa”.
Khả năng chống lại các ve
vãn ý thức hệ thời của chị để lựa chọn tìm chân lý và rộng mở cho sự khám phá ra đức
tin, đã được làm chứng bởi một phụ nữ khác của thời đại chúng ta: đó là chị Dorothy
Day, người Mỹ. Trong cuốn tiểu sử tự viết chị công khai tuyên xưng rằng chị đã bị
rơi vào trong cám dỗ giải quyết tất cả với chính trị, bằng cách chạy theo đề nghị
mác xít: ”Tôi đã muốn đi với các người biểu tình, vào tù, viết, ảnh hưởng trên người
khác và để lại cho thế giới giấc mơ của tôi. Có biết bao tham vọng và tìm kiếm chính
mình trong tất cả những điều đó!” Con đường tiến về đức tin đã đặc biệt khó khăn trong
một môi trường tục hóa như vậy, nhưng Thánh sủng vẫn hoạt động như chị đã nêu bật:
”Chắc chắn là tôi đã cảm thấy thường xuyên hơn nhu cầu đến nhà thờ, qùy gối xuống,
cúi đầu cầu nguyện. Một bản năng mù lòa, có thể nói thế, bởi vì tôi đã không ý thức
cầu nguyện. Nhưng tôi đã đi, tôi đã tháp mình vào bầu khí cầu nguyện... ”. Thiên Chúa
đã đưa chị tới việc ý thức gắn bó với Giáo Hội, trong một cuộc sống tận hiến cho những
người khốn khổ.
Trong thời đại chúng ta không hiếm các cuộc hoán cải được
hiểu như sự trở về của người, sau một nền giáo dục Kitô hời hợt, đã xa rời đức tin
biết bao nhiêu năm, và rồi tái khám phá ra Chúa Kitô và Tin Mừng của Người. Trong
sách Khải Huyền chúng ta đọc thấy rằng: ”Này đây: Ta đứng ngoài cửa và Ta gõ. Nếu
ai lắng nghe tiếng Ta và mở cửa cho Ta, thì Ta sẽ đến với nó, sẽ dùng bữa tối với
nó và nó cùng với Ta” (Kh 3,20). Con người nội tâm của chúng ta phải chuẩn bị để được
Thiên Chúa viếng thăm, và chính vì thế không được để cho mình bị xâm lăng bởi các
ảo ảnh, dáng vẻ bề ngoài, và các điều vật chất.
Đức Thánh Cha đã chào tín
hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau và cám ơn mọi người về tình yêu thương và lời cầu
nguyện dành cho ngài. Ngài xin tất cả tiếp tục cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng và cho
Giáo Hội.
Sau cùng Đức Thánh Cha cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh
cho mọi người.