Các trung tâm hành hương thu hút các tín hữu hơn các nhà thờ giáo xứ
Một số nhận định của Đức Ông Piero Coda, thần học gia Chủ tịch Học viện đại học
Sophia ở Lopiano trung bắc Italia
Trên toàn thế giới hiện có khoảng 10.000
Trung tâm thánh mẫu, trong đó khoảng một phần ba tại các nước ngoài Âu châu. Hầu như
mỗi quốc gia đều có các Đền thánh dâng kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, thường khi là
để ghi nhớ các lần Đức Mẹ đã hiện ra. Chỉ riêng tại 34 quốc gia Âu châu đã có tới
200 trung tâm thánh mẫu.
Nổi tiếng thu hút nhiều tín hữu và du khách hành
hương nhất thế giới có Đền Thánh Đức Bà Guadalupe bên Mêhicô, mỗi năm tiếp đón khoảng
20 triệu người. Đứng hàng thứ hai là Đền Thánh Đức Bà Aparecida, Trung tầm Thánh Mẫu
toàn quốc Brasil, nằm trong tiểu bang Sao Paolo. Năm 2010 Đền Thánh này đã đón tiếp
10,3 triệu tín hữu và du khách hành hương. Linh Mục Luiz Claudio, quản đốc Đền Thánh,
cho biết Đền Thánh có 1.200 cộng sự viên và 1.000 thiện nguyện viên, đảm trách các
sinh hoạt và việc tiếp đón tín hữu.
Tại Pháp Đền Thánh Đức Mẹ Lộ Đức hằng
năm thu hút từ 5 đến 6 triệu người. Kể từ khi Đức Mẹ hiện ra tại Hang Đá Massabielle
với chị Bernadette Soubirous năm 1854 đến nay, đã có 200 triệu tín hữu đến hành hương
Lộ Đức. Trong khi Đền Thánh Đức Mẹ Fatima bên Bồ Đào Nha chỉ nội trong năm 2011 đã
có 7,3 triệu tín hữu hành hương, gia tăng 300 ngàn so với năm 2010.
Riêng
tại Việt Nam điển hình như Trung tâm thánh mẫu toàn quốc La Vang, nơi Đức
Mẹ đã hiển ra để an ủi và che chở các tín hữu trong thời kỳ Văn Thân bắt đạo năm 1798.
Hiện nay Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đang cho tiến hành việc xây cất Trung tâm, thay
cho Trung tâm đã bị phá hủy vì bom đạn chiến tranh năm 1972. Trong khi tại Trà
Kiệu Đức Mẹ cũng đã hiện ra hồi năm 1885 để che chở tín hữu trong 21 ngày
toàn làng bị bao vây và nhận 500 qủa đạn pháo kích.
Trong thời gian qua tại
Italia đã có vài nghiên cứu cho thấy con số tín hữu tìm tuốn đến các trung tâm hành
hương và các đền thánh ngày càng gia tăng, trong khi số người tham dự các lễ nghi
phụng tự tại các nhà thờ giáo xứ gảm sút. Đâu là các lý do của hiện tượng này? Tại
sao nhà thờ các giáo xứ lại không lôi kéo tín hữu nữa?
Sau đây chúng tôi xin
gửi đến qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Ông Piero Coda, thần học gia, giáo
sư môn thần học hệ thống, kiêm viện trưởng Học viện đại học Sophia của phong trào
Tổ Ấm ở Lopiano, trung bắc Italia, về sự kiện các trung tâm hành hương thu hút tín
hữu hơn các nhà thờ giáo xứ. Bài phỏng vấn đã do nữ phóng viên Fausta Speranza của
chương trình Ý ngữ thực hiện ngày mùng 9 tháng Giêng năm 2013.
Hỏi: Thưa
Đức Ông, tại sao số tín hữu tuốn đến các trung tâm hánh hương hay các đền thánh đông
hơn số tín hữu tham dự các lễ nghi phụng vụ trong các nhà thờ giáo xứ?
Đáp: Đây là một hiện tượng cần phải chú ý phân tích và đọc hiểu. Nó mang theo
một sứ điệp quan trọng, cần được hiểu và có câu trả lời từ phía cộng đoàn kitô. Khía
cạnh tích cực chắc chắn của sự kiện tín hữu hành hương đến các trung tâm thánh mẫu
và đền thánh, tới các nơi có sự thinh lặng và cầm trí, biểu lộ sự thức tỉnh của một
nhu cầu tôn giáo sâu đậm. Chủ trương tục hóa, khuynh hướng quần chúng hóa và đồng
nhất hóa lan tràn trong xã hội thức tỉnh ý thức tinh thần sâu xa. Vì thế đối với tôi
xem ra có một sự gia tăng nhu cầu nội tâm, mà chắc chắn là nó được đặt để trong một
chiều kích hướng thượng hàng dọc, bởi vì trái tim con người - như thánh Agostino đã
nói - được tạo dựng cho Thiên Chúa. Do đó, nó tuyệt đối tìm kiếm việc tiếp xúc với
Thiên Chúa, cả khi chúng ta không thể bỏ qua sự kiện có những người tìm đến các trung
tâm hành hương và đền thánh chỉ đơn thuấn vì các nhu cầu tìm sự tĩnh mịch để tìm lại
chính mình, nhưng một cách sâu xa hơn đó lại chính là vấn đề nền tảng: là tìm gặp
gỡ Thiên Chúa.
Hỏi: Thưa Đức Ông, mỗi người, như Đức Ông đã nói,
một cách rõ ràng hướng tới tương quan với Thiên Chúa và sự gặp gỡ với Chúa
Kitô, và đó là điều quan trọng nhất. Tuy nhiên, đối với Kitô giáo cũng là điều rất
quan trọng, đừng đánh mất đi chiều kích cộng đoàn, ở đây là chiều kích cộng đoàn giáo
xứ địa phương của mỗi người, có đúng thế không?
Đáp: Dĩ nhiên rồi.
Và sự kiện này cũng gây thiệt hại cho một kinh nghiệm về tính cách độc đáo kitô là
một sự kiện cộng đoàn. Người ta sống sự cô tịch và thời gian cần thiết của lời cầu
nguyện, để rồi trở lại với cuộc sống của mọi ngày để làm men trong đống bột xã hội
với men của Tin Mừng. Như thế thực tại này cũng kêu mời và gọi hỏi chúng ta về sự
kiện các cộng đoàn giáo xứ của chúng ta đã thành công tới mức nào trong việc nối kết
hai chân trời này: chân trời hàng dọc với việc gặp gỡ Thiên Chúa, hiện diện nơi Chúa
Giêsu sống động trong trung tâm cộng đoàn kitô, và chân trời hàng ngang với khả năng
bỏ men gặp gỡ với Thiên Chúa nơi Chúa Kitô vào trong bột của xã hội loài người. Như
thế, xem ra nó là một khiêu khích đối với các cộng đoàn giáo xứ và giáo phận của chúng
ta, để chúng thực sự là chính mình cho tới cùng. Trong đức tin kitô có một sự kiện
nền tảng được minh giải bởi Tân Ước trong sứ điệp của Chúa Giêsu, cũng như trong Giáo
lý tông truyền, chẳng hạn như trong thư thánh Phaolô gửi tín hữu Do thái, nghĩa là
sự kiện sự hiện diện của Thiên Chúa được hiện thực một cách vĩnh viễn nơi Đức Giêsu,
là Đấng Kitô, là một sự hiện diện được làm bên trong kinh nghiệm của cộng đoàn. Đền
thờ Giêrusalem nhường chỗ cho Thân Mình Chúa Kitô. Thân Mình Chúa Kitô là cộng đoàn
các môn đệ tụ họp nhau nhân danh Chúa Kitô, là cộng đoàn, trong đó Chúa Kitô hiện
diện - như Công Đồng Chung Vaticăng II nói - trong nhiều cách thế khác nhau như: việc
loan báo Lời Người, cử hành Thánh Thể, sống chính sự Hiệp thông của các anh chị em
hiệp nhất nhân danh Chúa Kitô.
Và như thế chiều kích cộng đoàn này là một
chiều kích nềm tảng. Nó đâm rễ sâu trong một tương quan sâu xa với sự hiệp thông siêu
việt và tuyệt đối, là cuộc sống trong Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần.
Như vậy, cộng đoàn kitô - như Công Đồng Chung Vaticăng II dậy - là Bí tích, nghĩa
là dấu chỉ, dụng cụ của sự kết hiệp với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất với toàn nhân
loại. Vì thế cần phải tái khám phá ra sự thật sâu xa này, và nhất là cần phải sống
kinh nghiệm sự thật ấy. Đó là một thách đố: cộng đoàn phải biết dãi tỏa sự hiện diện
của Chúa Kitô, nhập thể sự hiện diện ấy vào trong cái phức tạp khó khăn và mâu thuẫn
của xã hội và thế giới của chúng ta. Nó là một viễn tượng lớn lao và nó có nghĩa là
làm cho bài học vĩ đại của Cồng Đồng Chung Vaticăng II trở thành thời sự một cách
sâu xa cho tới cùng.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị một số nhận định
của ông Mario ArturoIannaccone, giáo sư sử học Kitô giáo và
truyền thông tôn giáo, về ý nghĩa tôn giáo, các đền thánh và các nhà thờ trên bình
diện truyềm thông và các phương tiện truyền thông, trong cùng bài phỏng vấn nói trên.
Hỏi: Thưa giáo sư Iannaccone, giáo sư nghĩ gì về hiện tượng các đền
thánh có đông tín hữu đi hành hương, nhưng tín hữu lại ít lui tới các nhà thờ giáo
xứ?
Đáp: Chắc chắn là các đền thánh đầy các tín hữu, nhưng đây
không phải chỉ là điều bây giờ mới xảy ra. Thực ra, các thống kê cho thấy rằng hiện
tượng này đã không bao giờ ngừng, nhưng đã luôn luôn hiện diện trong thập niên 1990.
Đền thánh có đặc thái này: đó là nó quy chiếu về điều nòng cốt, nó quy chiếu về sự
thinh lặng, việc cầu nguyuện, về tương quan cá nhân với Thiên Chúa, và tại các đền
thánh việc thông truyền giữa linh mục và tín hữu đơn sơ hơn. Trong khi tại các nhà
thờ thành phố, tại các nhà thờ giáo xứ mà tín hữu lui tới - không luôn luôn - nhưng
đôi khi sự truyền thông khó khăn hơn.
Cố vấn đề truyền thông, chuyển đạt giữa
huấn quyền giáo hoàng và dân chúng. Thiếu sự rõ ràng, đơn sơ. Thách đố sẽ là đem trở
lại chiều kích hàng dọc, sự đơn sơ của việc truyền thông, mà người ta thấy tại đền
thánh, và cả trong các nhà thờ giáo xứ nữa.
Hỏi: Đôi khi các giờ giấc trong
các nhà thờ giáo xứ có thể là một chướng ngại hay không thưa giáo sư? Có vài nhà thờ,
nhất là tại trung tâm, thường đóng cửa trong vài giờ trong ngày... Có lẽ vì
các đền thánh cống hiến cho tín hữu khả thể lớn hơn chăng?
Đáp:
Vâng, tuyệt đối đúng như thế. Và chắc chắn điều này cũng gắn liền với sự kiện thiếu
các linh mục trong vài vùng, vì vậy có các nhà thờ đóng cửa vào sau buổi trưa hay
chỉ mở từ lúc 4 rưỡi cho tới 7 giờ chiều. Trái lại đền thánh thì hầu như lúc nào cũng
đầy tín hữu, kể cả buổi chiều, vì cửa đền thánh lúc nào cũng rộng mở suốt ngày, từ
sáng cho tới chiều.
Hỏi: Như thế là có hiện tượng các đền thánh thì
đầy tín hữu, còn các nhà thớ thì trống rỗng. Nhưng mà cũng có
một hiện tượng truyền thông nữa, có đúng thế không thưa giáo sư?
Đáp:
Cần phải phân biệt một chút giữa sự truyền thông của Giáo Hội và sự truyền thông về
Giáo Hội. Trong sự truyền thông về Giáo Hội thường xảy ra hiện tượng đền thánh nơi
có các cuộc hiện ra, và cả nơi không có các cuộc hiện ra, bị biến thành cảnh ngoạn
mục, một cuộc trình diễn.
Hỏi: Đôi khi xem ra người ta nói về Giáo Hội
chỉ như là môt cơ cấu chứ không phải là dân của Thiên Chúa, trong khi dền thánh
thì hầu như là ”một ốc đảo hành phúc” của tinh thần tu đức được các cơ cấu
tách rời ra: có đúng là sứ điệp này được chấp nhận một chút không thưa giáo sư?
Đáp: Vâng đúng là sứ điệp này qua lọt, nhưng nó sai, bởi vì trên thực tế Giáo
Hội và dân Chúa là các giáo dân, là ngôi nhà tbờ bé nhỏ của thành phố, là nhà thờ
bé nhỏ của vùng quê; chứ không phải chỉ là đền thánh, chứ không phải chỉ là nơi quyền
năng của Thiên Chúa đươc biểu lộ với một phép lạ hay trong một cách khác. Như vậy,
Giáo hội của các vụ xì căng đan thì lại qua lọt, bởi vì điều này là trò chơi, nhất
là của vài giới truyền thông nào đó, của vài nhân viên nào đó trong lãnh vực truyền
thông. Trong khi Giáo Hội của cuộc sống thường ngày, Giáo Hội của linh mục riêng rẽ
hay của nhóm hoạt động bác ái, có nguy cơ biến mất, hay chỉ nổi bật khi trở thành
một biến cố quan trọng, lôi kéo giới truyền thông. Vâng, sứ điệp loại này thì qua
lọt, nhưng nó phải được sửa sai, chắc chắn với các phương tiện mà chúng ta có ngày
nay.
Tôi biết có rất nhiều công tác rao truyền Tin Mừng rất tốt trong lúc
này đây, và chúng qua lọt nhờ cả hệ thống liên mạng Internet và một loạt các buổi
diễn thuyết, các nguyệt san vv... Xem ra thì có cái gì đó đang chuyển động.