Cơ cấu tư tế. Kitô hữu sẽ là các vua và các tư tế của Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô
Khi tìm hiểu chức tư tế của Đức Giêsu Kitô, chúng ta thấy tác giả thư gửi giáo đoàn
Do thái, hay Diễn từ về chức Linh Mục của Đức Giêsu, đã không bao giờ dùng tước hiệu
tư tế cho các kitô hữu, mà chỉ dành nó cho Đức Giêsu Kitô. Thánh Phêrô trái lại, áp
dụng cho cộng đoàn tín hữu tước hiệu tư tế, khi lấy lại tư tưởng của văn bản sách
Xuất Hành chương 19. Giavê Thiên Chúa hứa ban giao ước cho dân Israel qua miệng ông
Môshê và phán: ”Vậy giờ đây, nếu các ngươi thực sự nghe tiếng Ta và giữ giao ước của
Ta, thì giữa hết mọi dân, các ngươi sẽ là sở hữu riêng của Ta. Vì toàn cõi đất đều
là của Ta. Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân tộc thánh” (Xh 19,5-6).
Văn bản Thánh Kinh tiếng Do thái viết ”vương quốc các tư tế”, trong khi văn bản tiếng
Hy lạp viết ”cơ cấu tư tế” ”Hieráteuma”.
Trong chương 2 thư thứ I thánh Phêrô
đã lấy lại kiểu nói này của Thánh Kinh Hy lạp: ”Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như
những viên đá sống động mà xây nên ngôi Đền Thờ thiêng liêng, và hãy để Thiên Chúa
đặt anh em làm hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người nhờ
Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 2,5). Đức Giêsu Kitô là viên đá qúy được tuyển chọn làm đá tảng
góc tường, kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng. Còn đối với kẻ không tin, thì nó
sẽ trở thành viên đá làm cho vấp phạm, tảng đá làm cho ngã. Họ ngã vì không tin vào
Lời Chúa. Kitô hữu, trái lại, là những kẻ tin: ”Còn anh em, anh em là giống nòi được
tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan
truyền những kỳ công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy
ánh sáng diệu huyền” (1 Pr 2,9). Nhờ việc gắn bó với Chúa Kitô trong mầu nhiệm cái
chết và sự sống lại của Người, các tín hữu được xây dựng ”như những viên đá sống động,
để làm thành một hàng tư tế thánh thiện, dâng các lễ tế tinh thần lên cho Thiên Chúa
và được Người chấp nhận, nhờ Chúa Giêsu Kitô. Với các lời này thánh Phêrô công bố
việc thực hiện trong Giáo Hội lời hứa tuyệt vời với dân Israel. Ở đây không phải là
việc đòi hỏi một chức tư tế cho mỗi tín hữu, một cách cá nhân, như đôi khi người ta
yêu sách, nhưng là một chức tư tế chung, mà tất cả mọi kitô hữu đều có, như cơ cấu
tư tế, như hàng tư tế, theo bối cảnh của văn bản.
Thật ra, việc xây dựng một
tòa nhà là điều không thể làm được, nếu không có một cấu trúc. Trong chương 2 thư
gửi tín hữu Êphêxô thánh Phaolô nói về địa vị của các tín hữu như sau: ”Vậy anh em
không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các
người thuộc dân thánh, và là người nhà của Thiên Chúa, bởi đã được xây dựng trên nền
móng là các Tông Đồ và các ngôn sứ, còn đá tảng góc tường là chính Đức Kitô Giêsu.
Trong Người, toàn thể công trình xây dựng ăn khớp với nhau và vươn lên thành ngôi
đền thánh trong Chúa. Trong Người, cả anh em nữa, cũng được xây dựng cùng với những
người khác thành ngôi nhà Thiên Chúa ngự, nhờ Thần Khí” (Ep 2,19-22).
Xa hơn
trong chương 4 cùng thư thánh Phaolô kêu gọi tín hữu duy trì sự hiệp nhất, mỗi người
theo ơn Thiên Chúa ban cho. Thánh nhân khẳng định rằng chính Đức Kitô: ”đã ban cho
kẻ này làm Tông Đồ, người nọ làm ngôn sứ, kẻ khác làm người loan báo Tin Mừng, kẻ
khác nữa làm người coi sóc và dạy dỗ. Nhờ đó, dân thánh được chuẩn bị để làm công
việc phục vụ, là xây dựng thân thể Đức Kitô, cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự
hiệp nhất trong đức tin và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người
trưởng thành, tới tầm vóc viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, chúng ta sẽ không còn là
những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi giạt theo mọi chiều gió đạo lý, giữa trò bịp bợm
của những kẻ giảo quyệt khéo dùng mưu ma chước qủy để làm cho kẻ khác lầm đường. Nhưng,
sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn
tới Đức Kitô, vì Người là Đầu” (Ep 4,11-16).
Các ”lễ tế thiêng liêng” mà thánh
Phêrô nói tới trong chương 2 thư thứ I không được xác định. Nhưng giáo lý tổng quát
trong thư thứ I của thánh nhân cho ta hiểu rằng chúng hệ tại ”cung cách sống tốt lành”
và thánh thiện, như viết trong chương 2: ”Anh em hãy ăn ở ngay lành giữa dân ngoại,
để ngay cả khi họ vu khống, coi anh em là người gian ác, họ cũng thấy các việc lành
anh em làm mà tôn vinh Thiên Chúa trong ngày Người đến viếng thăm”. Còn trong chương
1 thánh nhân khuyên tín hữu: ”Anh em hãy sống thánh thiện trong cách ăn nết ở, để
nên giống Đấng Thánh đã kêu goi anh em, vì có lời Kinh Thánh chép: ”Hãy sống thánh
thiện, vì Ta là Đấng Thánh” (1 Pr 1,15). Thêm vào cuộc sống ngay lành thánh thiện
là sự vâng phục và được Thần Khí linh hứng. Thánh Phêrô nói ngài gửi thư cho các tín
hữu là ”những người được Thiên Chúa Cha biết trước và kén chọn, những người được Thần
Khí thánh hóa để vâng phục Đức Giêsu Kitô và được Người tưới rảy” (1 Pr 1,2).
Giống như thư thứ I của thánh Phêrô, sách Khải Huyền cũng lấy hứng từ lời Thiên Chúa
hứa với dân Israel, như ghi trong sách Xuất Hành chương 19 câu 6: ”Ta sẽ coi các ngươi
là một vương quốc tư tế, một dân tộc thánh” (Xh 19,6). Tuy nhiên sách Khải Huyền không
lấy lại văn bản Thánh Kinh Hy Lạp, nhưng một bản dịch từng chữ tiếng Do thái. Các
kitô hữu nhận biết rằng Chúa Kitô đã làm cho họ ”trở thành vương quốc và hàng tư tế
để phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người” (Kh 1,6). Triều thần thiên quốc hát dâng
Chiên Con một bài ca mới và chúc tụng Đức Kitô Chiên Con vì công trình đó, như viết
trong chương 5: ”Ngài xứng đáng lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã
bị giết và đã lấy màu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và
ngôn ngữ, thuộc mọi nước mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành
những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này” (Kh 5,9-10).
Sau cùng trong chương 20 sách Khải Huyền có một phúc lành liên quan tới các vị tử
đạo công bố rằng: ”Hạnh phúc thay và thánh thiện dường nào kẻ được dự phần vào cuộc
phục sinh thứ nhất này! Cái chết thứ hai không có quyền gì trên họ; nhưng họ sẽ là
tư tế của Thiên Chúa và của Đức Kitô, họ sẽ hiển trị với Đức Kitô một ngàn năm ấy”
(Kh 20,6).
Phần đóng góp đặc thù của sách Khải Huyền là việc nhấn mạnh trên
sự hiệp nhất giữa phẩm giá vương giả và phẩm giá tư tế. Trong các hoàn cảnh khó khăn
đặt để các kitô hữu vào trong một tình trạng của các nạn nhân và những người bị kết
án, thánh Gioan mời gọi họ mạnh dạn nhận biết rằng chính nhờ máu Chúa Kitô mà họ thực
sự trở thành các tư tế và vua, nghĩa là được nếm hưởng một tương quan đặc ân với Thiên
Chúa, và tương quan ấy thực thi một hành động định đoạt trong lịch sử thế giới. Phẩm
vị vương giả và tư tế của các kitô hữu được trình bầy như tuyệt đỉnh công trình cứu
chuộc của Chúa Kitô. Ngay trong lời chào ở đầu chương 1 sách Khải Huyền, thánh Gioan
đã khẳng định với tín hữu rằng Đức Giêsu Kitô ”đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình
rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc và hàng tư tế, để
phụng sự Thiên Chúa là Cha của Người: kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn
thuở muôn đời. Amen!” (Kh 1,6). Thánh nhân lập lại điều này trong chương 5: ”Ngài
cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng thờ Thiên Chúa chúng
ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này” (Kh 5,10).
Đàng khác, việc thực hiện tràn
đầy hai phẩm giá này xem ra là tuyệt đỉnh niềm hạnh phúc và sự thánh thiện mà tín
hữu được mời gọi nếm hưởng: ”Họ sẽ là tư tế của Thiên Chúa và của Đức Kitô, họ sẽ
hiển trị với Đức Kitô một ngàn năm” (Kh 20,6). Viễn tượng này phải trao ban can đảm
cho các tín hữu, khi họ gặp các thử thách gian lao khốn khó trong cuộc sống đức tin,
như đã xảy ra trong các thời kitô hữu bị bách hại xưa kia cũng như ngày nay và trong
mọi thời đại. Niềm hy vọng của họ thật là tuyệt vời.
Trong thành Giêrusalem
mới sẽ có ”ngai của Thiên Chúa và của Chiên Con” và ”các tôi tớ Người sẽ thờ phượng
Người” (22,3). Thánh Gioan viết trong chương 22: ”Rồi thiên thần chỉ cho tôi thấy
một con sông có nước trường sinh, sáng chói như pha lê, chảy ra từ ngai của Thiên
Chúa và của Chiên Con. Ở giữa quảng trường của thành, giữa hai sông, có cây Sự Sống
sinh trái mười hai lần, mỗi tháng một lần; lá cây dùng làm thuốc chữa lành các dân
ngoại. Sẽ không còn lời nguyền rửa nào nữa. Ngai của Thiên Chúa và của Chiên Con sẽ
đặt trong thành, và các tôi tớ Người sẽ thờ phượng Người. Họ sẽ được nhìn thấy tôn
nhan Người, và thánh danh Người ghi trên trán họ. Sẽ không còn đêm tối nữa, họ sẽ
không cần ánh sáng của đèn, cũng chẳng cần ánh sáng mặt trời, vì Chúa là Thiên Chúa
sẽ chiếu sáng trên họ, và họ sẽ hiển trị đến muôn thuở muôn đời.”(Kh 22,1-5). Và thế
là ơn gọi của con người sẽ được thành toàn viên mãn.