Trong số các lễ nhớ Đức Mẹ, ngoài lễ Đức Mẹ Lộ Đức, Giáo Hội còn có lễ Đức Bà Camêlô.
Tước hiệu Camêlô gắn liền với một dòng tu được thành lập trên núi Carmel trong vùng
Galilea bên Palestina. Nó diễn tả một trong những hình thức phổ biến nhất về lòng
sùng kính Đức Mẹ trong lịch sử Giáo Hội. Trong lịch phụng vụ cải tổ sau Công Đồng
Chung Vaticăng II lễ này được mừng vào ngày 16 tháng 7, và là lễ nhớ không bắt buộc.
Carmel là một dẫy núi dài hơn 25 cây số, trải dài từ vịnh Haifa trên biển Địa Trung
Hải cho tới đồng bằng Esdrelon. Chỗ cao nhất là 546 mét. Núi Carmel hay được Thánh
Kinh nhắc tới vì cây cối xanh tươi của nó; và nói tới Carmel là nói tới vẻ đẹp và
sự phong phú phì nhiêu. Chẳng hạn trong chương 35 ngôn sứ Isaia khích lệ thiên nhiên
vui lên vì Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ sắp tới: ”Vui lên nào hỡi sa mạc và đồng khô
cỏ cháy, vùng đất hoang hãy mừng rỡ trổ bông, hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và
hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được tặng ban ánh huy hoàng của núi Libăng, vẻ rực
rỡ của núi Carmel và đồng bằng Sharon. Thiên hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Giavê
và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng ta” (Is 35,1-2).
Trong chương 7 sách Diễm
Ca chàng là phu quân dùng hình ảnh núi Carmel để tả cái đẹp của nàng là hiền thê:
”Trên thân mình, đầu em đỉnh núi Carmel, tóc em một giải lụa hồng, bềnh bồng sóng
nước, xiềng xích quân vương” (Dc 7,6).
Nói về ngày Thiên Chúa đánh phạt Israel
ngôn sứ Amos viết ở ngay đầu chương 1: ”... đồng cỏ của mục tử nhuốm mầu tang tóc,
đỉnh núi Carmel nay đã héo tàn” (Am 1,2).
Truyền thống gằn liền núi Carmel
với ngôn sứ Elia, mặc dù Thánh Kinh Cựu Ước chỉ nhắc tới ngôn sứ một lần duy nhất.
Ngày nay người A rập vẫn gọi núi Carmel là ”Gebel Mar Elyas” ”Núi thánh Elia”. Chương
18 sách các Vua I kể rằng hồi thế kỷ thứ IX trước công nguyên, vua Akháp nghe lời
hoàng hậu Dêdabel cùng với dân Israel thuộc vương quốc miền Bắc bỏ Giavê Thiên Chúa
để tôn thờ thần Baal và các thần ngoại. Trong các ngôn sứ của Thiên Chúa chỉ còn lại
một mình Elia. Nhưng ngôn sứ can đảm dám thách đố 450 ngôn sứ giả của hoàng hậu Dêdabel
trong một hy lễ toàn thiêu trên núi Carmel để chứng minh cho dân Israel thấy ai là
Thiên Chúa thật.
Vì phía các ngôn sứ giả của hoàng hậu Dêdabel đông hơn, Elia
nhường cho họ dâng lễ tế trước. Họ nhảy múa và dùng gươm giáo rạch mình từ sáng tới
trưa mà không thấy các thần trả lời. Tới phiên ngôn sứ Elia, ông xếp củi, sát tế bò
để lên trên, rồi sai người tưới nước ba lần ướt đầm đìa cả rãnh chung quanh bàn thờ,
sau đó ngôn sứ cầu nguyện và lửa từ trời xuống thiêu rụi của lễ sát tế, củi, đá và
bụi, và làm khô nước trong rãnh. Dân chúng phủ phục sát đất và tuyên xưng Chúa là
Thiên Chúa. Ngôn sứ đã sai dân bắt 450 ngôn sứ giả và giết hết tại suối Kison (1 V
18,20-40). Từ đó núi Carmel được gắn liền với ngôn sứ Elia và cũng được gọi là ”núi
của ngôn sứ Elia”.
Vào hậu bán thế kỷ XII có một vài vị ẩn tu đã tới sống
trên núi Carmel. Họ là những tín hữu tây phương đạo đức hành hương Thánh Địa, chắc
hẳn là đi theo các đạo binh Thánh Giá cuối cùng của thời đó sang Palestina để bảo
vệ các nơi thánh của Kitô giáo. Họ đã được Đức Alberto Avogadro, Thượng Phụ Giêrusalem
giữa các năm 1206-1214, tụ họp lại với nhau thành nhóm, và viết cho họ một Quy luật
sống. Trong Quy luật ấy có nói rằng ”họ được thiết lập gần nguồn suối của ngôn sứ
Elia, trong thung lũng Es-siah”, nơi lộ trình ”Các khu vực của Giêrusalem”, là cuốn
sách hướng dẫn hành hương biên soạn giữa các năm 1220-1229, chỉ cho thấy ”các tu sĩ
Carmel” sống bên cạnh một ”nhà thờ nhỏ của Đức Bà”. Người ta không biết nhà thờ này
đã được xây khi nào, nhưng xem ra đó là ”ngôi nhà thờ nhỏ rất đẹp” được sách hướng
dẫn ”Các nẻo đường và các cuộc hành hương Thánh Địa” nói tới. Trong khi chúng ta không
biết gì về một ngôi nhà thờ khác như là ”công trình rất sang trọng”, được Đức Giáo
Hoàng Urbano IV nói tới trong bức thư ”Quoniam - Thấy rằng” đề ngày 19 tháng Hai năm
1263.
Có điều chắc chắn là lúc đó nhóm các ”tu huynh” đã di cư sang cả tây
phương và có tên gọi là ”Dòng Đức Thánh Maria núi Carmel” theo tước hiệu chắc chắn
đã là thói quen. Và tước hiệu này đã xuất hiện lần đầu tiên trong một tài liệu của
Đức Giáo Hoàng Innocenzo IV đề ngày 13 tháng Giêng năm 1252. Và điều hoàn toàn chính
xác đó là vào tiền bán thế kỷ XIII dòng này đã được thành lập dâng kính Đức Trinh
Nữ Maria, và các tu sĩ khấn tận hiến cho Mẹ Thiên Chúa. Việc tận hiến này được diễn
tả ra một cách nền tảng qua sự lựa chọn Đức Maria như là ”Bà Chủ” của ”nơi” đầu tiên
trên núi Carmel. Theo ý niệm pháp lý thời trung cổ sự kiện này khiến cho các tu sĩ
của dòng là những người hoàn toàn phục vụ Bà Chủ, với một sự tôn sùng đặc biệt. Lời
khấn đối với Đức Maria được diễn tả ra trong cuộc sống của các tu huynh với nhiều
dấu chỉ, kể cả các dấu chỉ phụng vụ, và lòng sùng mộ có tính cách cộng đoàn và cá
nhân.
Chúng ta có thể nói rằng Đức Trinh Nữ Maria của núi Carmel được cảm
nghiệm, tôn sùng và chiêm ngắm bởi các tu huynh và tất cả những ai sau này sẽ chia
sẻ cuộc sống của các vị, chẳng hạn như các nữ tu, các huynh đoàn và các giáo dân dòng
ba Đức Bà Camêlô. Đức Bà Camêlô là trung tâm kinh nghiệm tinh thần của nhóm được thành
lập bên Thánh Địa với mục đích sống đời hoàn thiện theo tinh thần Phúc Âm, trong sự
cô tịch chiêm niệm, tập trung nơi lời cầu nguyện liên lỉ, việc lắng nghe Lời Chúa,
trong một bầu khí đơn sơ, nghèo nàn và trong công việc lao động, noi gương đời sống
của Đức Maria tại Nagiarét.
Việc quy chiếu núi Carmel gắn liền với tên Đức
Maria, chỉ đơn thuần có tính cách địa lý lịch sử, để ám chỉ nơi dòng đã khai sinh
và có các tu huynh sống. Vì thế trong nguồn gốc của nó tước hiệu ”Đức Thánh Maria
của núi Camêlô” không ám chỉ một hình ảnh đặc biệt hay một khía cạnh mới của việc
tôn sùng. Đây là điều xác đáng, vì trong việc biểu lộ cụ thể lòng sùng mộ được diễn
tả ra với các tước hiệu của các nhà thờ khác nhau, các tu sĩ Camêlô nêu bật những
khía cạnh khác nhau trong cuộc đời của Đức Maria như: chức làm Mẹ Thiên Chúa, sự đồng
trinh, việc được thụ thai vô nhiễm nguyên tội, biến cố truyền tin. Vì vậy trong truyền
thống tiên khởi ”Đức Thánh Maria của núi Camêlô” chỉ đơn sơ là Đức Mẹ như thấy trong
bối cảnh của Tin Mừng, là Đức Trinh Nữ Maria rất trong trắng, Đấng tiếp nhận lời Chúa,
và với tiếng ”xin vâng” của Người đã trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa nhập thể làm
người.
Không cần nhấn mạnh nhiều qúa, chúng ta có thể nói rằng các ”tu huynh
Camêlô” nhìn Đức Maria thành Nagiarét, ”Nữ tỳ của Chúa”, như là Đấng gợi hứng, hướng
dẫn, là chủ cuộc sống của họ, tập trung nơi việc giữ gìn, chiêm niệm lời Chúa. Chính
vì thế các tu sĩ Camêlô cảm nghiệm Đức Maria như vừa là Mẹ vừa là Chị trên đường thiêng
liêng, trong một bầu khí thân tình quy hướng về việc bước theo Mẹ và sống tràn đầy
cuộc sống hướng thần ”trong việc phụng sự Chúa Kitô”, trong một bầu khí đơn sơ và
khổ hạnh. Đó là điều được diễn tả trong ”Quy luật sống”, mà ngay từ thế kỷ XIV các
tác giả của Dòng đã mau chóng trông thấy nhập thể nơi Mẹ Maria.
Trong các
thánh truyện nảy sinh sau đó, có một vài truyện đã hiện diện ngay trong các bút tích
đầu tiên của dòng còn được truyền tụng cho tới chúng ta. Chúng cho thấy việc đọc hiểu
trong nhãn quan thánh mẫu ”đám mây nhỏ của núi Carmel” do ngôn sứ Elia làm và đề nghị
với các đồ đệ của mình. Chương 18 sách các Vua I kể rằng ngôn sứ Elia mời vua Akháp
lên ăn uống vì ông nghe có tiếng mưa rào. Trong khi nhà vua ăn uống, thì ngôn sứ Elia
lên đỉnh núi Carmel, cúi xuống đất gục mặt vào hai đầu gối. Rồi ông bảo đứa tiểu đồng
đi lên và nhìn về phía biển. Nó đi lên nhìn và nói không có gì cả. Lần thứ bẩy nó
nói: ”Kìa, có một đám mây nhỏ bằng bàn tay người đang từ biển bốc lên. Ngôn sứ Elia
nói: ”Con hãy lên thưa với vua Akháp thắng xe mà xuống kẻo bị kẹt mưa”. Lập tức trời
kéo mây đen nghịt và nổi gió rồi trút mưa lớn. Vua Akháp cỡi xe đi Izreel. Tay Giavê
đặt trên Elia; ông thắt lưng và chạy trước vua Akháp cho tới lúc vào Izreel” (1 V
18,41-46).
Đám mây nhỏ ấy của núi Carmel là dấu chỉ chấm dứt cuộc hạn hán
kéo dài ba năm, được các tu sĩ Camelô coi như hình ảnh diễn tả Đức Maria, đem mưa
đến cho thế giới sau thời hạn hán. Mưa ấy là ân sủng của Thiên Chúa chấm dứt thời
gian khó khăn khô cằn cho dân Israel. Mưa ân sủng ấy là Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế,
Nước và Bánh hằng sống Thiên Chúa ban cho nhân loại.
Rồi còn có truyện Đức
Maria nhiều lần đến thăm cộng đoàn các tu sĩ Camêlô cùng với cha mẹ là thánh Gioakim
và thánh Anna. Rồi việc sùng kính Đức Maria của các tu sĩ được coi là đã có từ thời
xa xưa, hay ít nhất từ thời các tông đồ. Ngoài loại văn thể đạo đức đặc biệt của thời
đó khiến nảy sinh ra các tác phẩm nghệ thuật, một cách tích cực các câu truyện thánh
này diễn tả ý niệm sự thân tình theo tinh thần tin mừng đối với Mẹ Maria, Đấng đã
tiếp nhận tu sĩ Camêlô vào ”nhà của Mẹ”, và trợ giúp tu sĩ sống dấn thân theo Chúa
Cứu Thế duy nhất là Đức Giêsu Kitô Con Mẹ.