Trong thời gian từ ngày 11 tháng 2 cho tới 16 tháng 7 năm 1858, Đức Mẹ đã hiện ra
với chị Bernadette Soubirous 18 lần tất cả tại hang đá Massabielle bên Lộ Đức. Trong
các lần hiện ra ấy Đức Mẹ mời gọi chị sám hối hãm mình hôn đất và cầu nguyện cho những
người tội lỗi hoán cải. Đức Mẹ xin chị nói với các linh mục xây một nhà nguyện và
tổ chức rước kiệu tới đây, và nhất là tiết lộ cho chị biết Mẹ là ”Đấng Vô NhiễmThai”. Như thế Mẹ Maria xác nhận sự trung thực của tín điều Đức Mẹ vô nhiễm
nguyên tội, đã được Đức Giáo Hoàng Pio IX công bố bốn năm trước đó ngày 8-12-1854.
Nhưng 18 lần Đức Mẹ hiện ra tại hang đá Massabielle có ý nghĩa gì?
Để có thể hiểu ý nghĩa của biến cố này, cần quy chiếu các lời và các dấu chỉ của chính
Phúc Âm. Thật thế, một cuộc hiện ra không phải là một mạc khải mới, nhưng là một nhắc
nhớ Phúc Âm, nhấn mạnh một điểm nào đó của Tin Mừng, một tiếng kêu giúp hiểu nó, kể
cả đối với những kẻ điếc trong linh hồn. Như thế Lộ Đức trình bầy các đường nét nền
tảng của Tin Mừng: phép rửa sám hối của thánh Gioan Tẩy Giả, sự hoán cải, lời cầu
nguyện và hạnh phúc của những người nghèo khó. Như vậy có thể tóm tắt sứ điệp Lộ Đức
bằng bốn ý niệm sau đây: khó nghèo, cầu nguyện, sám hối và ơn thánh.
Trước
hết là sự khó nghèo. Đây là điều không được nói một cách rõ ràng, nhưng rất có ý nghĩa.
Bernadette là một cô bé gái nghèo, không học thức, con của một gia đình bị gạt bỏ
ngoài lề xã hội. Sự bần cùng của cô bé và gia đình được cảnh sát Lộ Đức biết rõ. Thế
mà cô lại là người được Đức Mẹ chọn làm sứ giả: ”những gì thế gian cho là yếu kém,
thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh” (1 Cr 1,27). Sau này Đức Giám
Mục Lộ Đức đã nói lên điều trên, khi diễn tả tâm tình của dân chúng. Đám đông đân
chúng hứng khởi đã không chịu được cảnh sống bần cùng của gia đình Soubirous, và các
người hành hương dâng cúng tiền bạc và các tặng phẩm khác nhau, nhưng Bernadette nhất
định từ chối, không nhận, mặc dù chị vẫn có cảm tình với những người nghèo khổ. Và
chính những người nghèo khổ lại tỏ ra quảng đại nhất trong việc dâng cúng các trợ
giúp. Cũng chính họ là những người đã hiệp sức sửa lại các con đường ngoằn nghèo dẫn
đến Hang Đá Đức Mẹ. Tất cả những điều này đã được các nhân chứng và chính Đức Giám
Mục giáo phận ghi nhận trong thư mục vụ đề ngày 18 tháng Giêng năm 1962.
Điểm
thứ hai trong sứ điệp Lộ Đức là cầu nguyện. Đây là điều chính Đức Mẹ đã xin chị Bernadette
cũng như các tín hữu ngay từ đầu, hay đúng hơn trước khi có sứ điệp. Và cầu nguyện
là đặc thái đã khiến cho Lộ Đức trở thành thủ đô của lời cầu nguyện có chiều kích
giáo hội ngày càng rộng rãi hơn. Điều Đức Mẹ xin trong lần hiện ra ngày mùng 2 tháng
3 năm 1858 đó là các linh mục hãy xây một nhà nguyện kính Đức Mẹ và đi kiệu tới đây.
Nó ám chỉ Giáo Hội trên đường lữ hành và bí tích Thánh Thể.
Ngày nay mỗi khi
hành hương tới Lộ Đức, tín hữu có thể tham dự các Thánh Lễ riêng theo đoàn ngay tại
Hang Đá nơi Đức Mẹ hiện ra, hay trong vương cung thánh đường bên dưới, cũng như các
thánh lễ quốc tế chung cho tất cả mọi người trong vương cung thánh đường dưới lòng
đất. Họ cũng có thể chầu Mình Thánh Chúa trong vương cung thánh đường bên trên. Vào
ban chiều có buổi rước kiệu Mình Thánh Chúa, chầu Phép lành và ban phép lành cho các
bệnh nhân. Vào ban tối có buổi rước nến lần hạt Mân Côi kính Đức Mẹ. Tín hữu cũng
có thể lãnh bí tích Hòa Giải và tắm nước suối Đức Mẹ. Đã có nhiều bệnh nhân được khỏi
bệnh khi tham dự cuộc rước kiệu Thánh Thể, lúc vị chủ sự cầm Mặt Nhật Mình Thánh Chúa
ban phép lành trên họ, hay sau khi tắm nước suối Đức Mẹ. Ngoài các giờ tham dự thánh
lễ, kiệu Mình Thánh Chúa và rước nến lần hạt, trước Hang Đá Đức Mẹ lúc nào cũng có
người lần hạt cầu nguyện, có khi suốt đêm, đặc biệt trong mùa hè và những ngày trời
đẹp.
Năm 2004 khi viếng thăm Lộ Đức Đức Gioan Phaolô II đã nói: ”Tại đây Đức
Trinh Nữ mời gọi chị Bernadette lần hạt Mân Côi, trong khi chính Mẹ cũng lần hạt.
Như thế Hang Đá này đã trở thành địa điểm của một trường cầu nguyện gây kinh ngạc,
nơi Mẹ Maria dậy cho tất cả mọi người chiêm ngưỡng gương mặt của Chúa Kitô với một
tình yêu nồng cháy. Chính vì thế Lộ Đức là nơi các tín hữu của Pháp và của biết bao
nhiêu quốc gia Âu châu khác cũng như của thế giới quỳ gối cầu nguyện”.
Điểm
thứ ba trong sứ điệp Lộ Đức là việc sám hối, hoán cải trở về với Thiên Chúa. Hoán
cải ”teshuva” trong tiếng Do thái có nghĩa là quay ngược lại 180 độ: đang trên con
đường xa Chúa, quay trở về với Người. Hoán cải ”metanoia” trong tiếng Hy lạp có nghĩa
là nghĩ cao hơn, nghĩ khác đi, thay đổi não trạng, thay đổi tâm thức, thay đổi cung
cách suy tư hành xử, bỏ đàng tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Trong cuộc sống đức
tin ai cũng ít nhiều cần phải hoán cải, và tiến trình hoán cải ấy chỉ kết thúc với
cái chết của mình. Tại Lộ Đức Đức Mẹ đặc biệt xin Bernadette hãm mình hôn đất làm
viêc đền tội và cầu nguyên cho những người tội lỗi được ơn trở về với Chúa và Giáo
Hội. Đền bù tội lỗi cũng sẽ là một phần của sứ điệp khi Đức Mẹ hiện ra tại Fatima
với trẻ chăn chiên Lucia, Phanxicô và Giacinta từ ngày 13 tháng 5 cho tới ngày 13
tháng 10 năm 1917.
Điểm thứ bốn trong sứ điệp Lộ Đức liên quan tới căn cước
của Đức Mẹ. Đức Trinh Nữ tự giới thiệu và tự đồng hóa với ơn nhưng không Thiên Chúa
ban, bởi vì đối với Mẹ mọi sự thiện hảo đều đến từ Thiên Chúa, tất cả là ơn thánh,
tất cả phát xuất từ ơn thánh như chính Mẹ đã thừa nhận trong thánh thi Magnificat,
mà Mẹ đã hát lên để chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa trong biến cố đến thăm bà chị họ
Elidabét thân mẫu của thánh Gioan Tẩy Giả tại Ain-Karim. Tâm tình của Bernadette đối
với bài thánh thi này thật rõ ràng. Ngày 22 tháng 5 năm 1866, trước khi bỏ Lộ Đức
để gia nhập dòng các Nữ tu Bác ái Nevers, Bernadette đã sáng tác một lời nguyện bắt
chước thánh thi Magnificat của Đức Mẹ cảm tạ Thiên Chúa vì ơn khó nghèo của nữ tỳ
Chúa (Lc 1,48). Chị thân thưa với Mẹ Thiên Chúa như sau: ”Vâng, thưa Mẹ dịu hiền,
Mẹ đã hạ mình xuống trái đất để hiện ra với một cô bé gái yếu đuối... Mẹ, Nữ Hoàng
trên trời, Mẹ đã muốn sử dụng những gì khiêm tốn nhất theo trần gian” (Trích Nhật
ký dành cho Nữ Hoàng trên trời, 1866).
Chính chị Bernadette là chứng tá sống
động diễn tả ý nghĩa sứ điệp của Đức Mẹ. Bernadette đã là chứng nhân duy nhất của
điều không thể tin được, và chứng tá của chị đã được cống hiến trong các điều kiện
hầu như không thể tưởng tượng được. Là người mù chữ thuộc gia đình không có địa vị
xã hội nào, có sức khỏe yếu kém, đã bắt đầu bị bệnh lao phổi, một căn bệnh mà chị
phải chiến đấu trong suốt đời, cô bé Bernadette đã phải đương đấu với ông cảnh sát
trưởng, tòa án, hiến binh và các ủy ban khác nhau của chính quyền dân sự. Tất cả đều
dùng mọi cách để gây áp lực nhằm tạo ra các mâu thuẫn nơi chị, hay khiến cho Bernadette
sợ phải nhượng bộ nhận là mình bầy đặt và nói dối. Nhưng đã không có gì có thể lay
chuyển được cô bé. Các tài liệu lịch sử cho thấy các người khảo cung vô cùng khâm
phục cô bé vô học thức này. Sự đơn sơ của Bernadette khiến người ta nghĩ tới thánh
nữ Jeanne d'Arc, và nhớ tới các lời Chúa Giêsu trấn an các môn đệ: ”Các con đừng lo
lắng phải nói làm sao hay nói gì, bởi vì trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy cho các con
biết những điều phải nói” (Lc 12,11 tt; Mt 10,19 tt.).
Tiếp theo sau các kẻ
đối nghịch của giới chức chính quyền dân sự lại tới phiên các thẩm phán của Giáo Hội
và các tín hữu hành hương thuộc đủ mọi loại. Các thẩm phán của Giáo Hội muốn thuyết
phục Bernadette là đã bị lừa, và đã trông thấy qủy dùng hoa hồng để che hai chân có
móng chẻ đôi của nó vv... Còn các tín hữu hành hương thì qúa sốt mến, tới độ muốn
đẩy chị rơi vào khuynh hướng sùng bái, coi chị là thánh và muốn chị rờ vào các vật
họ đem tới. Nhưng Bernadette đã luôn luôn từ chối. Và đôi khi tín hữu còn tìm cách
cắt lén một mảnh nhỏ áo của chị để giữ làm thánh tích. Tuy nhiên, sự ngay thẳng trong
sáng của chị đã chiến thắng mọi tấn công ngăn cản, có khả năng lung lạc và làm sai
đường cả những người mạnh mẽ nhất.
Chứng tá của chị Bernadette đã rất trong
sáng, đặc biệt trong cuộc sống tu trì tại Nevers. Chị đã gia nhập dòng trong hy vọng
”ẩn mình”, và thử thách lớn nhất là các cuộc phỏng vấn mà chị phải miễn cưỡng dành
cho các ân nhân, các nhà văn và đặc biệt là các Giám Mục được đặc quyền viếng thăm
chị. Bernadette đã ưa thích phục vụ người nghèo: thật vậy trong các năm 1869-1873
chị đã tỏ ra là một y tá rất chuyên môn, có khả năng, chú ý tới các nhu cầu của các
bệnh nhân, có uy tín tâm lý và rất được các bệnh nhân vâng lời và qúy mến. Nhưng chẳng
bao lâu bệnh lao phổi ngăn cản không cho phép chị làm việc gì nữa. Và đối với chị
đó đã luôn luôn là hy sinh lớn lao nhất. Có một lần, trong lúc làm việc ngoại thường,
một nữ tu khác thiếu tế nhị đã nói chị là một người vô ích. Bernadette hiểu và nhẹ
nhàng trả lới: ”Vâng thưa chị, nghề của em là đau ốm”.