Việc tổ chức phụng tự của các tư tế thời Cựu Ước dựa trên ý niệm nền tảng của sự thánh
thiện. Điểm khởi hành là việc nhận biết sự thánh thiện tuyệt đỉnh của Thiên Chúa,
và chính Thiên Chúa mời gọi dân Do thái nên thánh như viết trong sách Lêvi chương
19: ”Các ngươi phải nên thánh thiện, vì Ta, Giavê, Thiên Chúa của các ngươi, là Đấng
Thánh” (Lv 19,2). Vì Thiên Chúa là Đấng Thánh nên để có thể bước vào trong tương quan
với Người, tín hữu phải trở nên thánh, nghĩa là từ bình diện đời của cuộc sống thường
ngày bước vào bình diện thực tại của Thiên Chúa.
Để đạt tình trạng này phụng
tự cổ xưa đề nghị một hệ thống tiến lên qua các lễ nghi tách rời. Tuy là dân được
tuyển chọn nhưng toàn dân không có được sự thánh thiện đòi buộc để đến gần Thiên Chúa.
Chương 19 sách Xuất Hành ghi lại lời Giavê truyền cho ông Môshê như sau: ”Ngươi sẽ
định rõ cho dân một giới hạn chung quanh núi và bảo họ: Anh em phải coi chừng không
được lên núi và chạm đến chân núi. Ai chạm đến núi thì sẽ bị giết” (Xh 19,12).
Trong chương 33 khi ra lệnh cho dân chúng lên đường đi vào Đất Hứa Giavê phán: ”Ta
sẽ cho các ngươi vào một miền đất tràn trề sữa và mật; nhưng Ta sẽ không đi lên đó
cùng các ngươi, vì các ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ, vì nếu cùng đi thì e rằng
Ta sẽ tiêu diệt các ngươi dọc đường... Các ngươi là một dân cứng đầu cứng cổ. Ta mà
chỉ đi với các ngươi dù chỉ một chốc lát thôi, thì Ta sẽ tiêu diệt các ngươi” (Xh
33,3.5). Chính vì thế có một chi tộc là chi tộc Lêvi đã được tách ra khỏi các chi
tộc khác để lo việc phụng tự. Và trong chi tộc Lêvi có một gia đình là gia đình của
ông Aharon đã được để riêng ra để làm tư tế hiến dâng các hy lễ cho Giavê Thiên Chúa.
Trong gia đình của Aharon một người sẽ được chọn để làm Thượng tế. Thế rồi chỉ có
vị thượng tế ấy mới có quyền gặp gỡ Giavê Thiên Chúa, là cử chỉ cao trọng nhất của
việc phụng tự.
Cuộc găp gỡ ấy không thể được thực thi trong bất cứ nơi nào,
mà phải ở trong một nơi thánh, nghĩa là tách rời khỏi không gian trần tục, nơi xảy
ra các sinh hoạt của cuộc sống thường ngày, và đây là nơi người dân thường không được
vào.
Để vào nơi thánh tư tế phải chu toàn các lễ nghi thánh, là các hoạt động
khác với các sinh hoạt trần thế và theo các điều luật của việc tế tự. Trong số các
lễ nghi ý nghĩa nhất là lễ nghi hiến tế hay thánh hiến, tức làm cho tế vật từ thế
giới trần tục bước vào trong thế giới thiên linh.
Thánh hiến là làm cho nên
thánh. Hiến tế hay thánh hiến là điều cần thiết, vì tư tế không thể hoàn toàn bước
vào trong thế giới của Thiên Chúa được. Mặc dù tất cả các nghi lễ thánh hiến, tư tế
vẫn là con người trần gian. Vì vậy luật truyền cho tư tế phải chọn một sinh vật khác,
một thú vật, vẹn toàn không có tật nguyền nào, có thể được Thiên Chúa chấp nhận để
dâng nó trên bàn thờ. Được sát tế và được thiêu bởi lửa, tế vật ấy bay lên trời một
cách biểu tượng, hay máu của nó được rảy về phía ngai Thiên Chúa. Lễ nghi này là điểm
tột đỉnh của các sự tách rời. Tế vật được hoàn toàn lấy đi khỏi sự hiện hữu trên trần
gian để bị lửa trời thiêu rụi và đem lên tới gần Thiên Chúa.
Như thế phụng
tự cổ xưa giới thiệu một lược đồ thánh hiến ngày càng đầy đủ hơn, qua các nghi lễ
tách rời nối tiếp nhau. Sau di chuyển hướng lên cao này của các tách rời, người ta
hy vọng nơi một di chuyển của ơn thánh Chúa đổ xuống trên con người. Nếu hiến tế kết
thúc tích cực, thì tế vật đã được Thiên Chúa chấp nhận; vị tư tế dâng lễ vật được
vào gần Thiên Chúa và lãnh nhận được các ơn của Chúa cho dân.
Như vậy có thể
sắp xếp thứ tự các nhiệm vụ của các tư tế theo một lược đồ gồm ba giai đoạn: giai
đoạn đi lên, giai đoạn ở giữa, và giai đoạn đi xuống. Giai đoạn đi lên bao gồm tất
cả hệ thống của các tách rời theo lễ nghi, từ các luật lệ trong sạch: thực phẩm trong
sạch và không trong sạch, việc khám xét bệnh phong cùi của người, quần áo, nhà cửa
và tuyên bố là trong sạch hay ô uế, các tiếp xúc vv... cho đến việc chủ sự các lễ
nghi thanh tẩy, thánh hiến và dâng các hy lễ. Giai đoạn ở giữa là yếu tố định đoạt
bao gồm cuộc gặp gỡ của tư tế với Thiên Chúa. Nhờ hiến tế được vui nhận tư tế được
vào trong nhà Chúa. Giai đoạn đi xuống là kết qủa tiếp xúc tốt đẹp được thiết lập
giữa tư tế và Thiên Chúa. Tư tế lãnh nhận được từ Thiên Chúa ơn tha thứ và việc chấm
dứt các hình phạt do tội lỗi của dân gây ra. Ông có thể thông truyền cho dân biết
các huấn thị của Thiên Chúa, vén mở cho thấy con đường công chính phải theo để thành
công trong đời. Ông có thể chúc lành cho dân nhân danh Thiên Chúa để dân được thịnh
vượng, an bình và hạnh phúc.
Lược đồ ba giai đoạn trên đây cho thấy rõ vai
trò của tư tế. Tư tế đem lên Thiên Chúa các lời cầu và các lễ vật của dân, rồi lại
đem đến cho dân các câu trả lời và các ơn thánh của Thiên Chúa, và như thế bảo đảm
các tương quan tốt đẹp giữa dân và Thiên Chúa. Tuy nhiên Thánh Kinh Cựu Ước không
suy tư nhiều về vai trò trung gian của các tư tế, mà lại thích nhấn mạnh trên vinh
quang của chức tư tế. Điển hình như chương 45 sách Huấn Ca hay sách Ben Sira hăng
say miêu tả vinh quang của ông Aharon như sau: ”Thiên Chúa cất nhắc anh của ông Môshê
là ông Aharon thuộc chi tộc Lêvi, một con người thánh giống như em mình. Người đặt
ông làm giao ước vĩnh cửu và ban cho ông chức tư tế ở giữa dân, cho ông diễm phúc
được mang lễ phục huy hoàng và khoác cho ông áo choàng lộng lẫy. Người mặc cho ông
vẻ oai phong lẫm liệt, trang bị cho ông vững chãi, gọn gàng: quần đùi, áo dài và êphốt.
Người đeo quanh ông những qủa lựu, và vô số lục lạc bằng vàng khắp châu thân kêu leng
keng theo nhịp chân ông bước, âm thanh vang vọng khắp đền thờ, cho con cái dân Người
làm kỷ vật tưởng nhớ. Người mặc cho ông áo thánh kim tuyến, vải đỏ tía, vải điều,
công trình của thợ thêu, khăn ngực đựng thẻ xăm phán quyết, urim và tumin, bằng vải
gai đỏ thẫm, công trình của nghệ nhân, đính những viên ngọc khắc như những con dấu
gắn trên khung vàng, công trình của thợ bạc, có khắc chữ theo số các chi tộc Israel
để làm kỷ vật tưởng nhớ; trên mũ tế có gắn một huy hiệu bằng vàng khắc hàng chữ Thánh
Hiến; đó là huy hiệu vẻ vang, công trình tuyệt vời, được trau chuốt công phu, làm
vui con mắt.
Trước ông không có gì đẹp như vậy và cũng không hề có người ngoại
bang nào được ăn mặc như thế, chỉ trừ các con ông và dòng dõi ông đến muôn đời. Các
hy lễ ông dâng được thiêu đốt hết, mỗi ngày hai lần và cứ như thế mãi. Chính ông Môshê
đã tấn phong ông và xức cho ông dầu thánh. Đó là giao ước vĩnh cửu dành cho ông, và
cho dòng dõi ông, bao lâu trời còn tồn tại, để ông làm việc phụng thờ và tế lễ cùng
nhân danh Thiên Chúa mà chúc phúc cho dân.
Người đã chọn ông trong mọi người
phàm để dâng lễ phẩm lên Chúa, dâng nhũ hương cũng như hương thơm làm kỷ vật, để xá
tội cho dân. Về những gì liên quan đến các điều răn, Người ban cho ông quyền phán
quyết để dạy cho Giacóp biết các thánh chỉ và giải thích Lề Luật cho Israel.
Những người ngoài hùa nhau chống đối ông và ghen tị với ông trong hoang địa, những
người về phe Dathan và Abiram cùng bè lũ Corac bừng bừng nộ khí. Chúa nhìn thấy và
Người chẳng ưng, nên cả lũ bị tiêu diệt trong cơn lôi đình. Người đã làm những việc
lạ lùng kinh khiếp để thiêu hủy chúng trong ngọn lửa bừng bừng. Người còn cho ông
Aharon được thêm vinh hiển và ban cho ông phần gia nghiệp: Người chia cho ông hoa
lợi đầu mùa, và nhất là dọn cho ông bánh ăn no thỏa. Qủa vậy, Đức Chúa đã làm cho
ông và dòng dõi ông được ăn các lễ phẩm dâng tiến Người. Nhưng trong đất dân ở, ông
không có phần gia nghiệp, cũng chẳng được chia phần ở trong dân, vì ”Chính Ta là phần,
là gia nghiệp của ngươi” (Hc 45,6-22).
Văn bản chương 45 sách Huấn Ca trên
đây là một miêu tả chi tiết nguồn gốc, chức vị, phẩm phục, các nhiệm vụ cũng như các
quyền lợi của giới tư tế trong dân Israel thời Cựu Ước. Chương 50 sách Huấn Ca được
dành riêng để ca tụng Thượng tế Simon và những gì ông đã làm lúc sinh thời như: trùng
tu Nhà Chúa, xây nền móng cao gấp đôi, xây cao chân tường bọc quanh Thánh Điện, đào
bể chứa nước, củng cố thành phòng khi bị vây hãm. Văn bản miêu tả ông và nghi lễ tế
tự như sau: ”Ông uy nghi biết mấy giữa đám dân, khi ông bước ra khỏi Nơi Cực Thánh!
Ông tựa sao mai ngời sáng giữa tầng mây, như vầng nguyệt vào những đêm rằm, như thái
dương chói lọi trên Đền Thờ Đấng Tối Cao, như cầu vồng rực rỡ giữa đám mây huy hoàng.
Ông ví như đóa hồng tươi nở giữa mùa xuân, như cây huệ mọc bên bờ nước, tựa chồi non
Libăng giữa mùa hè. Ông khác nào hương trầm nghi ngút cháy trong lư, tựa bình vàng
nguyên khối cẩn đá qúy đủ loại. Ông tựa cây ô liu nặng chĩu qủa ngon, như cây bách
vươn cao đến tận ngàn mây thẳm. Khi ông nhận lấy lễ phục huy hoàng, và khoác áo choàng
lộng lẫy, khi ông tiến lên bàn thánh, thì ông làm cho Nơi Thánh rạng ngời vinh quang.
Khi ông đứng cạnh lò thiêu để bên trên bàn thờ, và nhận từ tay hàng tư tế các phần
lễ vật, thì anh em tư tế đứng vòng quanh ông theo hình một triều thiên vinh hiển,
như đám cây hương bá núi Libăng. Đứng quanh ông như những thân cây thiên tuế là toàn
thể con cái Ahraon với lễ phục huy hoàng, tay mang các lễ phẩm tiến dâng lên Đức Chúa
trước mặt toàn thể cộng đồng Israel.
Trong lúc cử hành nghi lễ tại bàn thờ,
ông sắp xếp các lễ phẩm dâng kính Đấng Tối Cao Toàn Năng. Ông giơ tay trên chén, rỗi
làm lễ rưới rượu nho và đổ xuống chân bàn thờ, như hương thơm làm vui lòng Đấng Tối
Cao, Vua vũ trụ. Bấy giờ con cái Aharon cất tiếng tung hô, thổi kèn đồng, tạo nên
một âm thanh vang dội, để mời mọi dân tưởng nhớ Đấng Tối Cao. Tức khắc toàn dân cùng
phủ phục sát đất mà thờ lạy Đức Chúa của họ, là Đấng Toàn Năng và là Thiên Chúa Tối
Cao. Đoàn ca viên hát bài ca ngợi, tiếng hát vang lừng, cung điệu du dương. Dân chúng
dâng lời van xin và cầu khẩn lên Chúa Tôi Cao là Đấng nhân từ, cho đến khi nghi lễ
kính Đức Chúa và buổi cử hành phụng tự đã hoàn thành. Bấy giờ ông Simon mới bước xuống,
giơ tay trên toàn thể cộng đồng con cái Israel, và đọc lời chúc lành của Giavê; như
thế ông đươc vinh dự xướng lên Thánh Danh Người. Một lần nữa dân chúng lại phủ phục,
để đón nhận phúc lành từ Đấng Tối Cao” (Hc 50,5-21).