Sáng thứ bảy 30-6-2012 Đức Hồng Y André Vingt-Trois, Tổng Giám Mục Paris, chủ sự lễ
truyền chức cho 12 tân linh mục .. Xin giới thiệu Cha Louis Bardon 30 tuổi
chào đời tại thủ đô Paris. Cha có khuôn mặt ân cần niềm nỡ nhưng kín đáo và trầm tĩnh.
Toàn thân Cha như biểu lộ niềm hạnh phúc của một người đã chọn con đường tốt nhất
đưa đến hạnh phúc. Xin nhường lời cho Cha.
Ngay từ thơ bé tôi đã hấp thụ một
nền giáo dục quy hướng về ý nghĩa phục vụ. Quên mình để xả thân phục vụ người khác
là điều kiện tiên quyết và cũng hết sức tự nhiên đưa tôi đến tâm tình sống hoàn toàn
phó thác nơi THIÊN CHÚA. Đó cũng là một trong những bí quyết hạnh phúc của con người.
Ơn gọi cuối cùng của mỗi một đời người là dâng hiến mình cho tha nhân và cho THIÊN
CHÚA. Chỉ như thế con người mới tìm thấy niềm hạnh phúc đích thật.
Quan tâm
chú ý đến người khác là điều tôi học biết ngay từ nhỏ, xét vì tôi sinh ra trong một
gia đình Công Giáo đông con với 7 anh chị em. Chúng tôi được giáo dục phải phục vụ
và giúp đỡ lẫn nhau, bắt đầu với các anh chị em trong gia đình. Vấn đề dâng hiến cho
THIÊN CHÚA tôi cũng cảm nhận từ lúc còn nhỏ tuổi. Năm lên 7 hoặc lên 8 tôi nhớ đã
ký thác cho thân mẫu biết ước muốn trở thành linh mục, sau khi tham dự Thánh Lễ trở
về nhà. Ý tưởng này theo tôi mãi cho đến khi tôi thi đậu tú tài. Và tôi cũng đã vui
vẻ thổ lộ với bạn bè.
Nhưng khi bước vào đại học, tôi bắt đầu cảm thấy do
dự vì tôi thấy hôn nhân cũng là một ơn gọi mang nhiều hứa hẹn. Tôi phân vân do dự
như thế trong vòng mấy năm. Sau cùng, để có thể sống trung thực với chính mình và
nhất là, để có thể đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, tôi liền cầu nguyện để phân định đâu
là con đường Chúa muốn tôi đi. Vốn là một hướng đạo sinh, ngay từ niên thiếu tôi đã
quyết định dành mỗi ngày năm phút để cầu nguyện.
Cầu nguyện cho phép tôi tạo
mối liên hệ thân tình mật thiết với THIÊN CHÚA. Thế rồi sau khi quyết định dâng hiến
toàn thân trong chức vụ linh mục tôi đã nhận được những ơn an bình cụ thể. Đây là
dấu hiệu quan trọng đối với tôi. Tôi biết chắc mình đã chọn đúng con đường Chúa muốn
tôi đi. Giờ đây tôi sung sướng hướng về tương lai và tiến bước với lòng tin tưởng.
Tôi chỉ biết chắc về ơn gọi linh mục của mình nhưng tôi không có ý tưởng nào rõ rệt
về chức vụ linh mục tôi sẽ chu toàn. Tôi chỉ cảm thấy vô cùng hân hoan được thi hành
mọi công tác tông đồ nơi giáo xứ. Tôi nhận thấy rõ ràng tôi được kêu gọi sống đời
linh mục triều, trong nghĩa là tôi phải sẵn sàng phục vụ mọi người, thực thi mọi công
tác.
Tuy nhiên, tôi có một ước muốn mục vụ thật đặc thù. Đó là thông truyền
cho các tín hữu giáo dân của tôi biết về cái bí quyết mang lại hạnh phúc cho tôi:
- Trọng tâm con tim của Linh Mục là phục vụ chức tư tế chung của mọi tín hữu đã lãnh
bí tích Rửa Tội, là thực thi thừa tác vụ thánh bằng sự dâng hiến toàn thân cho THIÊN
CHÚA và cho tha nhân. Đó chính là niềm hạnh phúc đích thật của con người.
... Cha Grégoire Meunier 29 tuổi chào đời tại Poitiers. Với ánh mắt hóm hỉnh,
phong độ kín đáo, Cha như để lộ tinh thần bén nhạy của một người luôn tìm kiếm sự
thật. Tìm sự thật ngay từ những ngày còn thơ bé. Đức Chúa GIÊSU KITÔ Cha đã gặp vào
năm 13 tuổi. Nhưng mãi rất lâu sau này, tại thủ đô Paris, Cha mới hiểu rằng người
ta chỉ có thể sống tràn đầy khi bám chặt neo vào Giáo Hội Công Giáo. Giờ đây trở thành
Linh Mục, Cha chỉ còn niềm khao khát phổ biến giáo huấn của Đức Chúa GIÊSU KITÔ qua
từng cuộc gặp gỡ. Xin nhường lời cho Cha.
Tôi là anh cả trong gia đình có
4 người con. Tôi lớn lên trong một gia đình Công Giáo không sống đạo bao nhiêu. Vào
năm lên 13 tuổi, vào một ngày đẹp trời ngay giữa một trại hè hướng đạo, tôi bỗng có
hành vi tuyên xưng Đức Tin đầu tiên. Năm đó tôi là tân hướng đạo sinh của nhóm. Tôi
ngỡ ngàng khám phá ra các bạn trẻ hướng đạo sao mà họ có thể nói về Đức Tin một cách
công khai và hoàn toàn tự do như thế! Họ lại tỏ ra thật sung sướng vì được sống và
làm chứng cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ!
Thế rồi chỉ vỏn vẹn 4 ngày sau, trong khi
tham dự Thánh Lễ, tôi bỗng tin vững vàng rằng Đức Chúa GIÊSU đang có mặt tại đây và
Người tự hiến trong Bánh Thánh mà Linh Mục truyền phép. Tôi tin và quyết chí sống
Đức Tin của mình.
Kể từ đó, phải có một bản năng tự do và một ý chí can đảm
lắm, mới có thể quyết định đi lễ mỗi Chúa Nhật, xét vì tôi còn nhỏ tuổi và giữa lúc
mọi người trong gia đình không ai sống đạo cả!
Thời gian trôi qua mãi cho
đến năm cuối bậc trung học đệ nhị cấp tôi bỗng ngỡ ngàng hiểu rằng mình có thể trở
thành Linh Mục! Đây là một ý tưởng khác thường nên chắc chắn nó không thể đến từ cá
nhân tôi. Nói đúng hơn, đó là một cú điện thoại: - THIÊN CHÚA đến tìm tôi tại
chính nơi tôi đang sống!
Rồi tôi ghi danh vào đại học theo ngành luật tại
Poitiers. Trong vòng hai năm, nếp sống sôi động của sinh viên và những tranh luận
chính trị chiếm trọn tâm trí và thời giờ của tôi. Thế nhưng khi chuyển đến Paris để
tiếp tục việc học thì mọi sự đảo lộn hết. Nơi tôi trọ nằm trong khu vực của giáo xứ
thánh Eugène và thánh nữ Cécile. Tôi khám phá ra các sinh hoạt thường ngày của một
giáo xứ và cuộc sống của Tổng Giáo Phận Paris. Chính nhờ tiếp xúc trực tiếp với thực
tại này mà tôi xin gia nhập Nhà Thánh Augustin vào năm 22 tuổi.
7 năm chuẩn
bị tiến đến thiên chức linh mục kể hơi lâu nhưng thật cần thiết! Chúng tôi học cách
đi vào một dự án không do mình đề ra và sống quên mình để có thể xả thân phục vụ người
khác.
Với sứ mệnh linh mục tôi cố gắng thông truyền giáo huấn của Đức Chúa
GIÊSU KITÔ bằng cách đích thân gặp gỡ những người tôi có nhiệm vụ đồng hành trong
chính thực tại cuộc sống của họ.
... Khi ấy, Đức Chúa GIÊSU phán: ”Thầy
chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên. Người làm thuê, vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc về
anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho
chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.
Thầy chính là Mục Tử nhân lành. Thầy biết chiên của Thầy, và chiên của Thầy biết Thầy,
như THIÊN CHÚA CHA biết Thầy, và Thầy biết THIÊN CHÚA CHA, và Thầy hy sinh mạng sống
mình cho đoàn chiên”(Gioan 10,11-15).
(”PARIS
NOTRE-DAME, L'Église en mission à Paris”, Journal du Diocèse de Paris, Hebdomadaire,
No 1435, 21 Juin 2012, trang 14-17 + 4-5)