Các tư tế và nhiệm vụ chúc lành cho dân và canh giữ Đền Thánh Chúa
Chúc lành và canh giữ Dền Thánh Chúa là hai nhiệm vụ khác nữa của các tư tế. Đây là
các nhiệm vụ tích cực hơn so với các nhiệm vụ khám xét người và vật để tuyên bố là
ô uế hay trong sạch.
Nhân danh Giavê Thiên Chúa của Israel các tư tế chúc
lành cho dân. Thực sự ra các tư tế không phải là những người duy nhất có nhiệm vụ
này, nhưng cũng có nhiều người khác chia sẻ nhiệm vụ chúc lành. Chẳng hạn người cha
gia đình chúc lành cho con cái. Và cũng xảy ra cảnh em giành phúc lành của anh như
trong trường hợp ông Giacóp nhờ mẹ giúp, đoạt phúc lành mà cha là Igiaác muốn dành
cho Edau là con cả, như kể trong chương 27 sách Sáng Thế. Rồi cảnh ông Giacóp nhận
hai người con của ông Giuse làm con và chúc lành cho chúng, như kể trong chương 48
sách Sáng Thế. Chương 49 thì kể lại biến cố ông Giacóp chúc phúc cho mười hai người
con, tức mười hai chi tộc Israel trước khi qua đời.
Nhà vua cũng chúc phúc
cho dân mình. Chương 6 sách các Vua II kể lại rằng vua Đavít rước Hòm Bia Giao Ước
vào thành Giêrusalem; và sau khi hoàn tất việc dâng các lễ toàn thiêu và lễ kỳ an,
vua Đavít nhân danh Giavê chúc phúc cho dân (2 V 6,16). Chương 8 sách các Vua I kể
lại rằng sau khi xây dựng xong Đền Thờ vua Salomon cho rước Hòm Bia Thánh từ thành
vua Đavít, tức là Sion, vào trong Nơi Cực Thánh của Đền Thờ. Vua quay mặt lại chúc
lành cho toàn thể cộng đồng Israel, trong khi cả cộng đồng đều đứng. Và vua cất tiếng
hiệu triệu dân chúng, kể lại lai lịch dự án xây Đền Thờ dâng kính Giavê từ thời vua
cha cho tới khi nhà vua hoàn thành chương trình ấy.
Chúc lành của các tư tế
đặt danh của Giavê trên dân Israel. Sách Dân Số chương 6 ghi lại công thức chúc lành
ấy như sau: ”Giavê phán với ông Môshê: ”Hãy nói với Aharon và các con nó rằng: Khi
chúc lành cho con cái Israel, anh em hãy nói thế này: ”Nguyện Giavê chúc lành và gìn
giữ anh em! Nguyện Giavê tươi nét mặt và gìn giữ anh em và dủ lòng thương anh em!
Nguyện Giavê ghé mắt nhìn và ban bình an cho anh em!” Chúc như thế là đặt con cái
Israel dưới quyền bảo trợ của danh Ta, và Ta, Ta sẽ chúc lành cho chúng” (Ds 6,22-27).
Để tên của Giavê trên Israel có nghĩa là thiết lập một tương quan với con người. Dân
Israel hiểu rằng một tương quan tốt với Thiên Chúa là điều kiện không thể thiếu để
cho cuộc sống cá nhân và cộng đoàn được xuôi chảy. Phúc lành bảo đảm cho sự phong
phú, cho niềm hạnh phúc và cho hòa bình của Israel.
Ngoài nhiệm vụ chúc lành
cho dân Chúa các tư tế còn có nhiệm vụ canh giữ Đền Thánh Chúa. Phúc lành của Lêvi
không nhấn mạnh trên tương quan giữa tư tế và đền thánh. Tuy nhiên có nhiều văn bản
khác chứng minh cho thấy tầm quan trọng của tương quan này. Tư tế là con người của
đền thánh. Tư tế có đặc quyền ra vào nơi thánh và phải giữ gìn đền thánh và các vật
thánh với sự cẩn trọng tuyệt đỉnh. Nơi thánh là nơi không phải ai cũng vào được, mà
chỉ có các tư tế mới được vào thôi. Vì thế chương 3 sách Dân Số xác định như sau:
”Các người đóng trại trước Nhà Tạm ở phía đông, nghĩa là trước Lều Hội Ngộ, hướng
mặt trời mọc, là ông Môshê, ông Aharon và các con ông này, là những người có trách
nhiệm trông coi thánh điện thay cho con cái Israel; còn ai khác mà tới gần sẽ phải
chết” (Ds 3,38).
Khi thành lập một thánh điện, thì lập tức cũng phải thánh
hiến một người để trông coi, như viết trong sách các Thẩm Phán chương 17: ”Ông Mikha
có một nhà thờ; ông đã làm các êphốt và các teraphim, rồi phong cho một người trong
các con làm tư tế cho ông. Thời đó Israel không có vua, ai muốn làm gì thì làm. Có
một thanh niên Bêlem Giuđa, thuộc chi tộc Giuđa. Anh là con một thày Lêvi ở đó như
khách trú. Người ấy đi khỏi thành Bêlem Giuđa để tìm chỗ cư trú. Trên đường đi anh
vào vùng núi Êfraim đến nhà ông Mikha. Ông Mikha hỏi anh: ”Anh từ đâu tới?” Anh ta
nói với ông: ”Tôi là một người Lêvi thuộc Bêlem Giuđa; tôi đi tìm chỗ cư trú”. Ông
Mikha nói với anh: ”Xin ở lại đây với tôi, để làm sư phụ và tư tế cho tôi. Phần tôi,
mỗi năm tôi sẽ cung cấp cho anh mười thỏi bạc, áo mặc và lương thực cần dùng”. Thầy
Lêvi đồng ý ở lại với ông; người trẻ tuổi ấy được ông coi như một trong các con ông.
Ông Mikha phong cho thầy Lêvi làm tư tế; người trẻ tuổi ấy trở thành tư tế của ông
và ở trong nhà ông Mikha. Ông Mikha nói: ”Bây giờ tôi biết Giavê sẽ phù hộ tôi, vì
tôi đã có một thầy Lêvi làm tư tế” (Tl 17,5-13).
Vào thời xa xưa có nhiều
đền thánh khác nhau. Tổ phụ Abraham đã dựng nhiều đền thánh ở nhiều nơi khác nhau:
chẳng hạn như tại Sichem. Ở đây Giavê hiện ra với ông và cho ông biết Người sẽ ban
đất này cho dòng dõi ông. Tại đây Abraham dựng một bàn thờ để kính Thiên Chúa, Đấng
đã hiện ra với ông (St 12,7). Từ chỗ ấy ông sang miền núi ở phía đông, và tại đây
ông cũng dựng một bàn thờ để kính Thiên Chúa, và ông kêu cầu danh Thiên Chúa (St 12,8).
Sau khi chia tay với cháu là ông Lót, tổ phụ Abraham di chuyển lều đến ở cụm sồi Mamre
tại Hebron, và tại đây ông cũng dựng một bàn thờ để kính Thiên Chúa (St 13,18). Trong
vụ sát tế Igiaác, người con duy nhất theo lệnh truyền của Giavê Thiên Chúa, tổ phụ
Abraham dẫn con lên tới núi Moria, dựng bàn ở đó và giơ tay sát tế con mình (St 22,9),
nhưng thiên thần Chúa bảo ông dừng tay đừng sát hại con trẻ. Abraham đã bắt con dê
đực mắc sừng trong bụi cây gần đó sát tế thay cho con mình. Trong suốt cuộc đời mình
Abraham đã dựng bàn thờ kính Thiên Chúa tại khắp mọi nơi ông đến.
Nhiều truyền
thống khác thì nói tới đền thánh Silo (1 Sm 1,3) và đền thánh Gabaon (1V 3,4). Sau
khi đánh chiếm Giêrusalem, vua Đavít cho đem Hòm Bia của Thiên Chúa vào trong thủ
đô mới của vương quốc như kể trong chương 6 sách Samuel II để ban cho thủ đô uy tín
và tầm quan trọng tôn giáo. Từ nay Giêrusalem sẽ là thủ đô chính trị, và tôn giáo.
Sau này vào lúc dịch hạch nổi lên giết hại dân chúng vì nhà vua đã phạm tội kiểm kê
dân số, vua Đavít đã đến mua sân lúa của ông Arauna để xây ở đó một bàn thờ dâng lễ
toàn thiêu hầu chấm dứt tai ương cho dân. Ông Arauna xin biếu nhà vua sân lúa, bò
làm lễ toàn thiêu, bàn đạp lúa và ách của bỏ làm củi, nhưng vua Đavít không nhận.
Nhà vua trả ông Arauna 15 lượng bạc để mua sân lúa và bò. Vua Đavít xây một bàn thờ
ở đó để kính Giavê và dâng những lễ toàn thiêu và những lễ kỳ an. Giavê đã thương
đến xứ sở, và tai ương đã chấm dứt không làm hại dân Israel nữa (2 Sm 24,18-25).
Như thế một nơi thánh mới đã được thành lập, nơi vua Salomon đã xây Đền Thờ Giêrusalem
cho Thiên Chúa, như kể trong sách các Vua I chương 6 và sách Sử Biên II chương 3.
Từ từ sau đó người ta có khuynh hướng gán cho Đền Thờ Giêrusalem không chỉ là nơi
thờ phượng chính của Israel, nhưng còn là nơi độc nhất. Các vua Edekia và Giosia đã
canh cải phụng tự trong ý hướng này. Sách các Vua II ghi trong chương 18 rằng vua
Edekia ”đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các cột thờ, và đập tan
con rắn đồng ông Môshê đã làm, vì cho đến thời đó con cái Israel vẫn đốt hương kính
nó” (2 V 18,4). Nhà vua phát động phong trào cải cách tôn giáo trong toàn vùng Giuđêa,
và truyền cho các tư tế đem ra khỏi Đền Thờ mọi đồ vật đã làm để kính thần Baal, thần
Asera và toàn thể thiên binh. Vua dẹp bỏ hàng tư tế bất hợp pháp mà các vua đã lập;
vua cũng dẹp bỏ những kẻ đốt hương kính thần Baal, kính mặt trời mặt trăng và các
chòm sao cùng toàn thể thiên binh. Vua đưa cột thờ ra khỏi Nhà Giavê và thiêu hủy
nó. Vua phá hủy những nơi chứa trai điếm trong nhà Giavê, nơi phụ nữ dệt khăn áo cho
thần Asera. Vua phá hủy các tế đàn ở nơi cao kính các thần dê... Vua làm ô uế Tôphét
trong thung lũng Ben Hinom, để đừng có ai làm lễ thiêu con trai con gái mình mà kính
thần Môlốc. Vua phá hủy hết các tế đàn các vua khác đã xây, cũng như đập tan các trụ
đá và các cột thờ (2 V 23,4-20). Còn vua Giosia thì dẹp bỏ tất cả mọi đền thánh tại
các tỉnh nhỏ để cho đền thờ Giêrusalem trở thành đền thờ duy nhất của Giavê Thiên
Chúa (2 V 23,8).
Hàng tư tế được tổ chức lại cho xứng hợp (2 V 23,9). Sau
thời lưu đầy cuộc canh cải tôn giáo này đã được vững chắc. Tất cả phụng tự tư tế được
cử hành trong Đền Thờ Giêrusalem, nơi các hàng tư tế và Lêvi khác nhau nối tiếp nhau
theo phiên trong việc phụng tự. Chương 24 sách Sử Biên nói tới 24 nhóm tư tế luân
phiên nhau đảm trách việc phụng tự trong Đền Thờ Giêrsusalem. Ông Dakharia, cha của
thánh Gioan Tẩy Giả, thuộc nhóm thứ 8 là nhóm Abigia, được vào dâng hương trong nơi
cực thánh của Đền Thờ. Chương 31 sách Sử Biên II cũng cho biết rằng ”Vua Khítkigia
tái lập các nhóm tư tế và các thầy Lêvi, ai vào nhóm nấy, mỗi người theo phận vụ của
mình, tư tế cũng như thầy Lêvi, để dâng lễ toàn thiêu, lễ kỳ an, và để phụng sự, tạ
ơn cùng tán tụng tại các cửa doanh trại của Thiên Chúa”.
Trong sự tiến triển
hướng về đền thánh duy nhất này cũng có thể nhận ra ảnh hưởng của một ý thức lớn hơn
về sự thánh thiện của Thiên Chúa duy nhất. Nhưng tỏ tường nó là một khuynh hướng trao
ban sự độc tôn cho Đền Thờ Giêrusalem, là thủ đô của vương quốc Do thái.