Giá Trị Vĩnh Viễn Của Tuyên Ngôn Nostra Aetate - Diễn Văn Của Chủ Tịch Hội
Đồng Tòa Thánh Cổ Võ Sự Hiệp Nhất Các Kitô hữu
Trong những cuộc thảo luận gần đây về khả năng đón nhận trở lại Huynh Đoàn Thánh Pio
10 vào Giáo hội Công Giáo Roma đã nảy sinh một vài vấn nạn, không chỉ liên quan đến
người Do Thái, về tầm quan trọng và giá trị của Tuyên Ngôn về liên lạc của Giáo
Hội với các Tôn Giáo ngoài Kitô Giáo - Nostra Aetate(số 4). Người Do thái
lo ngại rằng, ngang qua một loạt hành động tái hiệp thông của một số linh mục và tín
hữu vốn có theo khuynh hướng bài Do thái giáo và từ chối tuyên ngôn về Nostra Aetate,
Giáo hội Công Giáo có thể đương đầu với một hướng đi mới trong việc đối thoại với
Do thái giáo hay ít nhất điều này cũng cho thấy rằng đối với Giáo hội Công Giáo tầm
quan trọng của Tuyên Ngôn này chỉ là tương đối. Về phần mình, Giáo Hội Công Giáo đôi
lúc đã nói rằng Công Đồng Vaticano II đã đưa ra một sự phân biệt về các bản văn của
mình, một sự phân biệt giữa Hiến Chế, Sắc Lệnh và Tuyên Ngôn, và rằng Nostra Aetate
chỉ là một Tuyên Ngôn và có một tầm quan trọng thứ yếu và tính cách bắt buộc của nó
có thể được cân nhắc trong mối liên hệ với các bản văn khác. Trước vấn đề này,
Đức Thánh Cha đã ủy thác cho tôi trình bày vấn nạn này trong một cách thức cụ thể:
Nostra Aetate không hề bị đặt lại bởi Huấn quyền của Giáo Hội, như chính Đức
Thánh Cha đã minh chứng trong các bài nói chuyện, các bài viết và các cử chỉ của ngài
khi gặp gỡ người Do Thái. Một sự xích lại gần hơn với Huynh đoàn Thánh Pio không có
nghĩa là chấp nhận và ủng hộ lập trường của họ. Chắc chắn rằng về hình thức, chúng
ta có thể đưa ra một sự phân biệt giữa các bản văn khác nhau của Công Đồng; tuy nhiên,
xét về mặt nội dung thì chúng là một thể thống nhất không thể tách rời hay không thể
đối chọi nhau. Do đó, Nostra Aetate không thể được xem như một thiên thể
độc lập, rơi trực tiếp từ trời xuống và không có sự liên hệ nào với các bản văn khác
của Công Đồng. Vì thế, khởi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình, Đức Thánh Cha Biển
Đức 16 đã xóa tan mọi nghi vấn bằng cách đồng ý hoàn toàn với Công Đồng và các tài
liệu của Công Đồng trong một cái nhìn thống nhất. Khi trình bày về một phương pháp
chú giải các bản văn của Công Đồng, ngài đã diễn tả rõ quan điểm này trong bài nói
chuyện nổi tiếng của mình trước Giáo Triều Roma trong dịp mừng lễ Giáng Sinh năm 2005. Nostra
Aetate được xem là “tài liệu nền tảng” và là “Magna charta” (tài liệu quan trọng)
trong cuộc đối thoại giữa Giáo hội Công Giáo Rôma và Do thái giáo. Tuyên ngôn này
bắt đầu với việc phản tỉnh về mầu nhiệm và sứ vụ của Giáo hội trong lịch sử cứu độ
và cũng nhắc nhớ về mối dây hiệp thông sâu sắc nối kết dân của Tân Ước với con cháu
Abraham. Tuyên ngôn này nói rõ về thái độ cần phải tránh khi đối xử với người Do thái,
đó là thái độ khinh khi, hạ giá và xúc phạm. Hơn nữa, Tuyên ngôn này cũng minh nhiên
nhấn mạnh về nguồn gốc Do thái của Kitô giáo và đã nỗ lực để đánh đổ những kết án
dành cho người Do thái diễn ra ở nhiều nơi trong nhiều thế kỷ qua. Về phần mình, người
Do thái đặc biệt đánh giá cao nỗ lực của Giáo Hội Công Giáo ngang qua tài liệu này
đã chống lại mọi hình thức bài Do Thái. Do đó, họ tiếp tục được an ủi và hi vọng về
khả năng Giáo hội Công giáo sẽ là một đồng minh đáng tin cậy trong trận chiến chống
lại phong trào bài Do thái vốn chưa thể loại trừ trong thế giới hôm nay. Những
chất liệu hình thành nên bản dự thảo của tuyên ngôn Nostra Aetate có thể được
tổng kết ở ba điểm sau: một sự phản tỉnh về lương tâm Kitô giáo sau thảm họa Holocaust,
sự phát triển của khoa học Kinh Thánh cho đến Công Đồng Vaticano II và cuối cùng là
sự thành lập nhà nước Israel vào năm 1948. Trong bối cảnh Kitô giáo, thì những hậu
quả mà con người phải đối diện trong thảm họa Holocaust chính là yếu tố quyết định
thúc đẩy Giáo hội soạn thảo bản văn này. Một yếu tố khác đóng vai trò không nhỏ liên
quan đến yếu tố chính trị và thực tiễn đó là sự ra đời của nhà nước Israel. Sau khi
nhà nước này được thành lập, Giáo Hội Công Giáo đã có thể hiện diện ở Đất Thánh và
đã thi hành đời sống mục vụ của mình trong một đất nước vốn được xem là quốc gia của
Do thái Giáo. Khi xem xét đến những nguyên lý thần học được tìm thấy trong Nostra
Aetate như là một cấu trúc nền tảng chúng ta cần lưu ý rằng, trong những nghiên
cứu Kinh thánh trước Công Đồng, hình ảnh của Đức Giêsu Nadaret đã bắt đầu được xem
xét nhiều hơn trong bối cảnh của Do thái giáo trong thời đó. Do đó, Tân Ước đã được
xem xét trong bối cảnh của các truyền thống của Do thái và Đức Giêsu được xem là
một người Do thái trong thời đại của Ngài và tuân theo những truyền thống này. Khi
phản tỉnh về những ảnh hưởng của các tài liệu Công Đồng Vaticano II, chúng ta không
e ngại để xác nhận rằng Nostra Aetate là một tài liệu quan trọng giữa các tài
liệu này và nó đóng góp một phần quan trọng và đưa ra một định hướng nền tảng cho
Giáo hội Công Giáo sau công đồng. Sự tôn trọng dành cho người Do Thái được diễn tả
trong Tuyên Ngôn này đã giúp hai bên chuyển từ thái độ nghi kỵ lẫn nhau trong nhiều
thế kỷ sang thái độ sang thái độ hợp tác, hai bên đã trở thành đối tác đáng tin cậy
của nhau và thậm chí là thành những người bạn thân để có thể cùng nhau đối diện với
những khủng hoảng và vượt qua những xung đột trong một cách thế tích cực. Trong
cuộc đối thoại với Do thái giáo, khởi đầu triều đại Giáo Hoàng của mình, Đức Thánh
Cha Biển Đức đã nhấn mạnh rằng, theo bước chân người tiềm nhiệm, ngài không chỉ ước
mong phát triển mà còn tăng cường mối liên hệ với những người Do thái. Điều này thì
không thể nghi ngờ vì những nỗ lực của Đức Gioan Phaolo II trong việc đối thoại giữa
Công Giáo và Do thái thì được đảm bảo và được xây dựng trên Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin
do hồng Y Ratzinger làm bộ trưởng. Với tư cách là một nhà nghiên cứu Kinh Thánh, ngang
qua việc nghiên cứu Cựu Ước và Tân Ước, hồng Y Ratzinger đã xây dựng những mối tương
quan thắm thiết với người Do thái; và ngài cũng đã tăng cường các mối tương quan cá
nhân với người Do thái trong thời gian ngài ở Roma. Quan điểm nền tảng thần học của
Ratzinger dựa trên niềm xác tín cho rằng Kinh thánh chỉ có thể được hiểu một cách
đích thực khi xem nó là cuốn sách duy nhất; và do đó, “concordia testamentorum” (sự
hoà hợp giữa các bản văn Kinh Thánh) là một một yếu tố thiết yếu để giải thích đúng
đắn sứ điệp Kinh thánh về cứu độ. Trong ánh sáng của những niềm xác tín này, ta
không lấy làm ngạc nhiên khi Đức Thánh Cha gánh vác sứ mạng hòa giải đã được bắt đầu
bởi vị tiền nhiệm của mình trong công cuộc đối thoại giữa Công giáo và Do thái. Ngài
không chỉ gửi đến vị Trưởng Hội Đường Do thái giáo ở Roma trong là thư đầu tiên trong
triều đại của ngài mà còn tái xác nhận điều này trong cuộc gặp gỡ đầu tiên với vị
ủy viên của người Do thái vào ngày 9 tháng 7 năm 2005. Giáo hội Công giáo đang bước
những bước đi vững chắc dựa trên những nguyên lý được thiết lập bởi Nostra Aetate;
và tiếp bước vị tiền nhiệm của mình, Đức Thánh Cha chắn chắn sẽ tiếp tục cuộc đối
thoại này. Vietvatican Nguyễn Minh Triệu sj