Một số trường hợp phải dâng lễ tạ tội theo chương 5 sách Lêvi
Chương 5 sách Lêvi trình bầy một số trường hợp phải dâng lễ tạ tội.
Sự kiện nó không có câu mở đầu ”Giavê phán với ông Môshê rằng” khiến cho người ta
có thể nghĩ rằng các câu 1-13 của chương 5 tiếp tục chương 4. Đặc biệt là phần hai
các câu 7 tới 13 nói về lễ tạ tội cho một thường dân chắc chắn là phần tiếp theo của
chương 4, vì người ấy không có khả năng tài chánh để mua chiên dê, mà chỉ có thể mua
một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu non. Như thế 6 câu đầu chương 5 là phần do soạn
giả thêm vào mà không theo luận lý nào. Ngoài ra, kết cấu và nội dung của chúng thiếu
chặt chẽ, các từ ngữ tế tự cũng không chính xác, thiếu các yếu tố lễ nghi như việc
đặt tay trên đầu con vật, và việc đưa thêm vào yếu tố xưng thú tội lỗi, cho phép kết
luận rằng chúng là các điều lệ hiện hữu độc lập với nhau, nhưng được soạn giả quy
tụ lại với nhau vì tính cách phụng tự, trong khi tính cách pháp lý chỉ là phụ thuộc.
Phần đầu chương 5 sách Lêvi viết: ”Khi một người nào phạm tội, vì tuy là nhân chứng
về một việc đã thấy hoặc đã biết, mà không chịu nói ra sau khi đã nghe lời khuyến
cáo long trọng, thì nó phải mang lấy tội một mình; hoặc khi một người nào đụng
đến bất cứ vật gì ô uế - như xác chết một dã thú ô uế, xác chết một gia súc ô uế,
xác chết một con vật ô uế - mà không biết, thì nó trở nên ô uế và mắc lỗi; hoặc
khi người ấy đụng đến một cái gì ô uế của người ta - những thứ ô uế khiến người ta
trở nên ô uế - mà không biết, thì sau khi biết nó mắc lỗi; hoặc khi một người
nào lỡ lời mà thề làm điều gì bất kỳ tốt xấu - trong mọi điều một người có thể lỡ
lời mà thề - nhưng không biết, thì sau khi biết, nó mắc lỗi về một trong những điều
ấy.
Vậy khi ai mắc lỗi về một trong những điều trên, thì nó phải xưng thú
tội lỗi mình đã phạm, rồi phải đưa đến dâng Giavê lễ vật đền tội vì tội đã phạm, là
một con chiên cái hay một con dê cái làm lễ tạ tội, và tư tế sẽ cử hành lễ xá tội
cho nó khỏi tội” (Lv 5,1-6).
Công thức ”Vậy khi ai mắc lỗi về một trong những
điều trên, thì nó phải xưng thú tội mình đã phạm” cho phép nghĩ rằng đây là điều có
tính cách pháp lý được thêm vào những gì đã nói trước đó. Nhưng nó không rõ ràng,
vì không biết việc xưng thú đó liên quan tới những gì đã nói hay chỉ là một sự nhận
lỗi chung chung, hoặc việc đọc một danh sách các tội, như thói quen của người Babilonia
và người Assiri.
Tính cách tỉ mỉ và máy móc của lễ nghi tạ tội trong cựu ước
không châm chước cho trường hợp nào hết, kể cả những trường hợp phạm tội mà không
biết. Bình thường mà nói, khi không biết, tức không cố ý, thì không có lỗi, và không
thể coi là tội, nhưng ở đây cũng vẫn tự động mắc tội.
Phần thứ hai của chương
5 đề cập tới lễ tạ tội cho một thường dân và là phần tiếp theo chương 4. ”Nếu người
ấy không có phương tiện kiếm được chiên dê, thì vì tội đã phạm, nó phải đưa đến dâng
Giavê lễ vật đền tội, là một đôi chim gáy hay một đôi bồ câu non, một con làm lễ tạ
tội, một con làm lễ toàn thiêu. Nó sẽ đưa đôi chim đến cho tư tế. Trước tiên tư tế
sẽ tiến dâng con chim làm lễ tạ tội; tư tế sẽ cấu đầu con chim ở gần gáy, nhưng không
tách hẳn ra; tư tế sẽ rảy máu lễ vật tạ tội vào thành bàn thờ, phần máu còn lại sẽ
được bóp vào chân bàn thờ. Đó là lễ tạ tội. Còn con thứ hai, tư tế sẽ dâng làm lễ
toàn thiêu như luật định. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho nó khỏi tội đã phạm,
và nó sẽ được tha”
Nếu người ấy không thể kiếm được một đôi chim gáy hay một
đôi bồ câu non, thì vì tội đã phạm, nó phải đưa đến dâng lễ tiến, là bốn lít rưỡi
tinh bột làm lễ tạ tội. Người ấy sẽ không đổ dầu lên trên, cũng không bỏ hương vào,
vì đó là lễ tạ tội. Người ấy sẽ đưa đến cho tư tế, tư tế sẽ bốc một nắm làm phần kỷ
vật dành cho Giavê và đốt cho cháy nghi ngút trên bàn thờ, bên trên các lễ hỏa tế
dâng Giavê. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội như thế cho nó, vì tội nó đã phạm trái với
một trong những điều trên, và nó sẽ được tha. Tư tế sẽ có phần, như khi người ta dâng
lễ phẩm” (Lv 5,7-13).
Hai trường hợp như kể trên đây dành cho các tín hữu
nghèo không có khả năng tài chánh mua chiên dê làm của lễ tạ tội.
Phần ba
của chương 5 các câu 14-26 đưa chúng ta vào trong một lãnh vực pháp lý khác liên quan
tới một trường hợp gian lận trong một lãnh vực thánh thiêng. Các của thánh nói tới
ở đây là các lễ tế nói chung và các phần dành cho các tư tế. Văn bản cũng đề cập tới
các gian lận khác nhau trong lãnh vực dân sự. Các câu 14-19 nói về các tội vô tình,
trong khi các câu 20-26 nói tới các tội cố ý. Nhưng sự khác biệt này không thay đổi
các điều kiện để được ơn tha tội, vì trong cả hai trường hợp ngoài lễ vật đền tội
còn phải trả thêm một phần năm nữa. Sự tha thứ gắn liền với yếu tố phụng vụ và việc
bồi thường.
Chương 5 sách Dân Số cũng nói tới luật bồi hoàn như sau: ”Phàm
ai, đàn ông hay đàn bà, vì bất trung với Giavê mà phạm một trong những tội người ta
quen phạm, thì con người ấy phải chịu phạt. Nó phải xưng thú tội mình đã phạm và đền
bù đầy đủ, ngoài ra còn phải trả thêm một phần năm nữa cho người mình đã làm thiệt
hại. Nếu người này không có bà con gần để lãnh của bồi thường thiệt hại, thì vật bồi
thường sẽ thuộc về Giavê, tức là thuộc về tư tế, chưa kể con dê xá tội phải dâng để
làm nghi thức xá tội cho người mắc tội” (Ds 5,5-8).
Vào thời vua Joas cai
trị Giuđa từ năm 835 đến 796 trước công nguyên, tiền lễ vật đền tội và bồi thường
được dành cho các tư tế, nhưng không nộp vào Đền Thờ như viết trong chương 12 câu
17 sách các Vua II: ”Còn số bạc người ta xin lễ đền tội và lễ tạ tội, thì không nộp
vào Nhà Giavê, số bạc ấy thuộc về các tư tế” (2 V 12,17).
Phần ba chương 5
sách Lêvi đề cập tới lễ đền tội và viết: ”Giavê phán với ông Môshê rằng: ”Khi một
người nào bất trung, vô ý phạm đến những của thánh dành cho Giavê, thì phải đem dâng
Giavê lễ vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt từ bầy chiên, giá trị bằng
một số chỉ bạc, tính theo đơn vị đo lường của thánh điện - để làm lễ đền tội. Tội
nó đã làm thiệt thánh điện bao nhiêu, nó sẽ phải đền, cộng thêm một phần năm, và nộp
cho tư tế. Tư tế sẽ dùng con chiên đực dâng làm lễ chuộc tội mà cử hành lễ xá tội
cho nó, và nó sẽ được tha” (Lv 5,14-16).
Liên quan tới con dê phải lượng gía
trong một vài trường hợp người ta bắt phải trả bằng súc vật và cũng dự kiến là có
thể tính ra tiền theo các lễ nghi đã thiết định. Vì thế kiểu nói trên đây cũng có
thể dịch là ”có thể tính ra tiền, theo đơn vị của thánh điện”.
Chương 5 sách
Lêvi đề cập tới một trường hợp phạm tội vô tình thứ hai, chỉ phải đền tội và có tính
cách phụng tự, khác trường hợp đi trước và đi sau. Văn bản viết: ”Nếu một người nào
phạm tội và vô tình làm một trong những điều mệnh lệnh Giavê cấm làm, thì nó mắc lỗi
và phải mang lấy tội mình. Nó phải đưa đến cho tư tế một con chiên đực toàn vẹn bắt
tư bầy chiên, giá trị như đã quy định, để làm lễ đền tội. Tư tế sẽ cử hành lễ xá tội
cho nó về tội nó đã vô ý phạm mà không biết, và nó sẽ được tha. Đó là lễ đền tội;
nó qủa là mắc tội với Giavê” (Lv 5,17-19).
Phần cuối cùng của chương 5 sách
Lêvi trình bầy một trường hợp gian lận đối với người khác và bị coi là gian lận đối
với Thiên Chúa. Văn bản viết: ”Giavê phán với ông Môshê rằng: ”Khi một người nào phạm
tội bất trung với Giavê, vì đã từ chối không trả cho người đồng bào một vật ký thác,
một vật gởi tay, hay một vật mất trộm, hoặc vì đã bóc lột người đồng bào, hoặc vì
đã từ chối không trả một vật bắt được, khi nó đã thề gian về một trong những điều
trên là những tội người ta có thể phạm, thì kẻ phạm tội và mắc lỗi như thế phải trả
lại vật mình đã ăn trộm, hoặc của đã bóc lột, hoặc cái đã được ký thác cho mình, hoặc
vật bị mất mà mình đã bắt được, hoặc bất cứ vật nào mà nó đã thề gian là không giữ.
Nó phải đền đầy đủ, cộng thêm một phần năm và phải nộp cho chủ của, ngày mà nó dâng
lễ đền tội. Nó phải đem dâng Giavê lễ vật đền tội, là một con chiên đực toàn vẹn bắt
từ bầy chiên, giá trị như đã quy định, nộp cho tư tế làm lễ vật đền tội. Tư tế sẽ
cử hành lễ xá tội cho nó trước nhan Giavê, thì nó sẽ được tha, bất kể nó đã làm gì
khiến mình mắc lỗi”.
Trường hợp trên đây cho thấy một trong những nét đẹp
nhất của luật tế tự do thái. Đó là các tội chống lại tha nhân cũng bị coi như là các
tội chống lại chính Thiên Chúa, vì con người được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình
ảnh Người, và là con cái Thiên Chúa. Phẩm giá con người phát xuất từ đó, và chính
nó phải là điểm quy chiếu cho tất cả mọi tương quan giữa con người với nhau. Nét đẹp
thứ hai trong văn bản nói trên là việc trả lại và bồi thường không được chậm trễ,
ngay trnog ngày dâng lễ, vì nó là điều kiện để của lễ đền tội được chấp nhận. Trên
bình điện này luật tế tự do thái đạt đỉnh cao thần học, tu đức, nhân chủng và xã hội
học, mà các bộ luật tân tiến ngày nay cũng không sánh kịp.