Tên gọi tư tế trong tiếng Do thái và nhiệm vụ của các tư tế
Theo Bộ Ngũ Thư chức tư tế được Thiên Chúa giao phó cho ông Aharon và các con ông
(Xh 28,1; Lc 8,1). Aharon anh ruột của ông Moshê thuộc chi tộc Lêvi. Các Lêvi khác
được ban cho ông Aharon để họ giúp ông trong các nhiệm vụ phụ thuộc. Chương 3 sách
Dân Số viết: ”Giavê phán với ông Môshê rằng: ”Hãy gọi chi tộc Lêvi lại và đặt chúng
túc trực bên cạnh tư tế Aharon để giúp nó. Chúng phải đảm nhận công việc của nó, cũng
như công việc của toàn thể cộng đồng trưức Lều Hội Ngộ, để lo phục dịch Nhà Tạm. Chúng
sẽ trông coi tất cả các vật dụng trong Lều Hội Ngộ, đồng thời đảm nhiệm công việc
của con cái Israel, để lo phục dịch Nhà Tạm. Ngươi hãy trao các thầy Lêvi cho Aharon
và các con nó như những người được dâng hiến, những người được dâng hiến mà con cái
Israel nộp cho nó. Ngươi hãy đặt Aharon và các con nó đảm nhận chức tư tế, còn ai
khác mà tới gần sẽ phải chết” (Ds 3,5-10).
Như vậy, các tư tế và Lêvi là những
người được thánh hiến cho công tác đứng trước Lều Hội Ngộ, trông coi các vật dụng
trong Lều Hội Ngộ, phục vụ Nhà Tạm và Thiên Chúa. Các gia phả trong các sách Sử Biên
gắn liền các Thượng tế của đền thờ Giêrusalem với con cháu của tư tế Aharon. Sách
Sử Biên I chương 5 các câu từ 25 tới 41 kể tên các vị tiền bối của các thượng tế.
Xa hơn chương 24 nói tới việc tổ chức các tư tế con cháu của ông Aharon thành
24 nhóm như sau: ”Con cháu ông Aharon cũng được chia thành nhiều nhóm. Các con ông
Aharon là: Nadab, Abiu, Eleazaro và Itamar. Nhưng Nadab và Abiu chết trước cha mình
và không có con, nên Eleazaro và Itamar thi hành chức tư tế. Được trợ giúp bởi ông
Sadoc, thuộc các con ông Eleazaro và bởi Abiatar, thuộc các con ông Itamar, vua Đavít
chia các con của ông Aharon thành từng nhóm, theo nhiệm vụ của họ. Kết qủa là các
người đứng đầu con của ông Eleazaro đông hơn các người đứng đầu con của ông Itamar.
Và họ được phân chia như sau: mười sáu trưởng tộc là con ông Eleazaro và tám trưởng
tộc là con ông Itamar. Người ta bốc thăm để phân chia họ, những người này cũng như
những người kia, vì trong các con ông Eleazaro cũng như các con ông Itamar, có những
viên chức lo việc thánh điện, những viên chức của Thiên Chúa. Thư ký là ông Semagia
con ông Nathanael, thuộc chi tộc Lêvi, đã ghi danh họ trước mặt vua Đavít và các thủ
lãnh, trước mặt tư tế Sadoc và ông Akhimelec, con ông Abiatar, cũng như trước mặt
các trưởng tộc tư tế và Lêvi: họ rút một thăm cho mỗi gia tộc thuộc Eleazaro và hai
thăm cho mỗi gia tộc thuộc Itamar” (1 Sb 24,1-6)..
Chương 24 sách Sử Biên I
viết tiếp: ”Thăm thứ nhất trúng Gioiarib, thăm thứ hai Jedaigia, thăm thứ ba Kharim,
thăm thứ bốn Seorim, thăm thứ năm Malkigia, thăm thứ sáu Migiamin, thăm thứ bẩy Haccos,
thăm thứ tám Abigia, thăm thứ chín Giơshua, thăm thứ mười Sekhangiahu, thăm thứ mười
một Eliasib, thăm thứ mười hai Jakim, thăm thứ mười ba Khuffa, thăm thứ mười bốn Isbaal,
thăm thứ mười lăm Binga, thăm thứ mười sáu Immer, thăm thứ mươi bẩy Khedia, thăm thứ
mười tám Hafises, thăm thứ mười chín Petakhgia, thăm thứ hai mươi Giơkhekel, thăm
thứ hai mươi mốt Giakhin, thăm thứ hai mươi hai Gamul, thăm thứ hai mươi ba Delaigiahu,
thăm thứ hai mươi bốn Maazgiahu. Họ đươc phân nhóm như thế để vào phục vụ nhà Giavê
theo luật ông Aharon cha của họ đã quy định như Giavê Thiên Chúa Israel đã truyền”
(1 Sb 24,7-19).
Trong Thánh Kinh Tân Ước, tư tế Dakharia cha của Gioan Tẫy
Gỉa thuộc nhóm thứ tám, tức nhóm Abigia (Lc 1,5). Như thế chức tư tế cha truyền con
nối được khẳng định và bảo đảm cho tính cách tiếp nối của cơ chế tư tế. Khác với các
ngôn sứ có ơn gọi không tùy thuộc nơi nguồn gốc gia đình, nhưng tùy thuộc một sáng
kiến không thể thấy trước được của Thiên Chúa, các tư tế và các Lêvi nhận được chức
vụ vì thuộc về một gia đình tư tế và Lêvi.
Trong tiếng Do thái ”kohen” có
nghĩa là tư tế. Người ta không biết ý nghĩa đầu tiên của từ này là gì. Có vài học
giả đặt nó trong tương quan với từ ”kanu” của tiếng Accadic có nghĩa là ”cúi xuống”.
Như vậy, tư tế là người cúi xuống trong thái độ tôn thờ trước thần linh. Nhiều học
giả khác lại nghĩ tới từ ”kun” trong tiếng Do thái có nghĩa là ”đứng thẳng” và định
nghĩa tư tế như là một người ”đứng trước mặt Thiên Chúa”, như viết trong chương 10
câu 8 sách Đệ Nhị Luật: ”Thời ấy Giavê tách chi tộc Lêvi ra, để họ mang Hòm Bia Giao
Ước của Giavê, chầu chực trước nhan Giavê, phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Người,
cho đến ngày nay. Vì thế chi tộc Lêvi không được chung phần và thừa hưởng gia nghiệp
với anh em mình; chính Giavê là gia nghiệp của họ, như Giavê, Thiên Chúa của anh em
đã phán với họ” (Đnl 10,8-9). Nhiều học giả khác nữa thì gắn từ ”kohen” với một từ
gốc tiếng Siriac, diễn tả ý niệm về sự phong phú. Tư tế là người, qua việc chúc phúc
của mình, đem lại sự phong phú cho người hay vật được chúc phúc.
Trong tiếng
Hy lạp, từ ”kohen” được dịch là ”hiereus” là từ có bà con với từ ”hieros” có nghĩa
là thánh thiêng. Tư tế, linh mục, là con người của sự thánh thiêng. Họ có nhiệm vụ
chầu chực trước nhan Giavê, phụng sự Người và chúc phúc nhân danh Người.
Các
văn bản kinh thánh gán cho các tư tế nhiều nhiệm vụ khác nhau, mà không giải thích
các tương quan với một vài ý niệm nòng cốt. Theo đó các tư tế có các nhiệm vụ sau
đây: thứ nhất, nói lên các lời sấm để truyền đạt ý muốn của Thiên Chúa cho dân chúng;
thứ hai, giảng dậy cho dân; thứ ba, làm các việc phụng tự và hiến tế; thứ bốn, tuân
giữ luật trong sạch và ô uế; thứ năm, chúc lành cho dân nhân danh Giavê Thiên Chúa;
thứ sáu, trông coi đền thánh.
Trước hết các tư tế có nhiệm vụ thỉnh ý Giavê,
qua việc gieo các vật thánh gọi là ”tummin và urim” để biết phán quyết của Thiên Chúa.
Trong phẩm phục tư tế của Aharon có túi đeo trước ngực, để các ”tummim và urim”. Chương
28 sách Xuất Hành miêu tả nó như sau: ”Ngươi sẽ làm một túi đeo trước ngực rất mỹ
thuật đựng thẻ xăm cho biết phán quyết của Thiên Chúa. Ngươi sẽ làm túi đó theo kiểu
áo Êphốt; bằng chỉ vàng, chỉ đỏ tía, chỉ điều, chỉ đỏ thẫm, và sợi gai mịn xe. Túi
đó hình vuông, may kép, dài một gang, rộng một gang. Người sẽ nhận vào đó bốn hàng
ngọc: ở hàng thứ nhất có nhận xích não, hoàng ngọc và bích ngọc; ở hàng thứ hai có
nhận hồng ngọc, lam ngọc và kim cương; ở hàng thứ ba có nhận miêu nhãn thạch, mã não
và tử ngọc; ở hàng thứ tư có nhận kim lục thạch, mã não có vân và vân thạch. Những
viên ngọc đỏ sẽ được nhận vào những ổ bằng vàng. Các viên ngọc sẽ mang tên con cái
Israel: mười hai viên ngọc mang mười hai tên của chúng khắc theo kiểu dấu ấn, mỗi
viên ngọc mang tên một trong mười hai chi tộc.”.
Tiếp đến văn bản xác định
cách làm các khoen bằng vàng ròng và các dây đeo cũng như cách đeo túi bên trên áo
Êphốt. Văn bản viết tiếp: ”Khi vào nơi thánh, Aharon sẽ mang trên ngực tên con cái
Israel, làm kỷ vật vĩnh viễn trước nhan Giavê, được ghi vào túi đeo trước ngực, chỗ
đựng thẻ xăm phán quyết. Ngươi sẽ đặt các thể xăm phán quyết urim và tummim vào túi
đeo trước ngực; những vật này sẽ nằm trên ngực Aharon, khi ông đến trước nhan Giavê.
Như thế trước nhan Giavê, Aharon sẽ luôn mang trên ngực phương tiện cho biết phán
quyết của Thiên Chúa về con cái Israel” (Xh 28,29-30). Với các urim và tummim tư tế
đổ thăm và chúng xác định câu trả lời của Thiên Chúa cho vài vấn đề cuộc sống nào
đó. Văn bản rõ ràng nhất là sách Samuel I chương 14 trong đó vua Saul muốn biết lý
do của khó khăn đang gặp phải nên thưa với Thiên Chúa: ”Nếu lỗi là nơi con và nơi
Gionathan con của con, thì ôi lậy Chúa, Thiên Chúa của Israel, xin hãy cho urim; nếu
lỗi là nơi Israel dân Ngài, thì xin hãy cho tummim”. Và lỗi đã rơi phía vua Saul và
hoàng tử Gionathan. Sau đó thẻ xăm lai cho biết hoàng tử Gioanathan có lỗi. Nhưng
vì được dân chúng bênh vực nên hoàng tử không phải chết.
Khi Đavít bị vua Saul
truy nã, ông đến gặp tư tế Ebiatar để xin tư tế gieo tummim và urim để biết vua Saul
có xuống thành Keila truy nã ông hay không, và các thân hào Keila có giao nộp ông
cho vua hay không. Sau khi biết là có, Đavít và các người của ông bỏ thành Keila để
trốn vào trong sa mạc. Sau này Davít cũng thỉnh ý Giavê để đuổi theo bọn cưởp, lấy
lại hai bà vợ và của cải đã bị cướp. (1 Sm 30,7). Nhiệm vụ thỉnh ý này của tư tế không
phải là nét đặc thù của Do thái giáo, vì các dân tộc khác trong thế giới cổ xưa cũng
có thói quen này. Qua thói quen gieo thẻ ấy chúng ta có thể nhận ra việc tìm kiếm
ý muốn của Thiên Chúa, cũng như một xác tín tôn giáo nền tảng: đó là nếu không có
tương quan với Thiên Chúa, con người không thể tìm được con đường của mình trong cuộc
sống.