Theo tiến trình lịch sử cuộc đời Đức Maria lễ
đầu tiên là lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, cử hành biến cố
Đức Maria được Thiên Chúa giữ gìn sinh ra không bị mắc tội tổ tông. Nó là một lễ tín
lý, vì ngày 8 thàng 12 năm 1854 Đức Giáo Hoàng Pio IX đã long trọng công bố tín điều
Đức Maria vô nhiễm nguyên tội. Ngày lễ mang sắc thái đạo đức bình dân gắn liền với
biến cố Đức Mẹ hiện ra với chị Bernadette tại Lộ Đức ngày 25 tháng 3 năm 1858 và nói
cho chị biết tên của Mẹ là ”Vô Nhiễm Nguyên Tội”. Nghĩa là Đức Mẹ xác nhận tín lý
do Đức Giáo Hoàng Pio IX công bố.
Mặc dù biến cố này không được Thámh Kinh
Tân Ước nhắc tới, nhưng lịch sử việc sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguuyên Tội đã rất
cổ xưa. Sự kiện Giáo Quyền công bố tín điều chỉ là việc công nhận một truyền thống
đã có hầu như ngay từ đầu trong Giáo Hội. Thật thế, các giáo phụ đông phương đã dùng
nhiều từ và kiểu nói khác nhau để ca tụng Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và gọi Mẹ là Đấng
”không bợn nhơ, không tội lỗi”, là ”vẻ đẹp của sự vô tội”, là Đấng ”trong trắng hơn
các thiên thần”, ”hoa huệ rất tinh tuyền”, mầm giống không bị nhiễn độc”, ”đám mây
rạng ngời của mặt trời”, Đấng ”vô nhiễm”.
Bên Tây Phương lý thuyết vô nhiễm
đã không được tiếp nhận một cách dễ dàng, vì người ta nghĩ rằng Đức Maria cũng là
người nên cũng mắc tội tổ tông như tất cả mọi người. Tuy nhiên sau đó nó được tiếp
nhận, vì Giovanni Duns Scotto phân biệt và giải thích rằng Đức Maria đã được Chúa
Giêsu phòng ngừa cứu chuộc trước, nên được giữ gìn khỏi tội tổ tông.
Sau đó
lòng sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễm được phổ biến mạnh bên Tây Phương và năm 1476 lễ Đức
Maria vô nhiễm nguyên tội được đưa vào trong lịch phụng vụ Roma. Tại Italia các vị
giảng thuyết tài ba như thánh Leonardo thành Porto Maurizio và thánh Bernardino đã
ca tụng Đức Trinh Nữ vô nhiễm và khơi dậy lòng sùng kính Đức Mẹ. Năm 1830 Đức Mẹ hiện
ra với thánh nữ Catarina Labouré và chị đã phổ biến chiếc ”Mề đai phép lạ” với hình
Đức Mẹ Vô Nhiễm, Đấng đã được thân mẫu thụ thai không vương tội tổ tông. Chiếc mề
đai này dấy lên cả một phong trào sùng kính Đức Mẹ Vô Nhiễn khiến cho nhiều Giám Mục
viết thư về Tòa Thánh yêu cầu Đức Giáo Hoàng tuyên bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội.
Thật ra, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội đã được cử hành ngay từ thế kỷ
XI, và được lồng khung trong bối cảnh của mùa Vọng và mùa Giáng Sinh, cử hành mầu
nhiệm nhập thể giáng sinh, và cũng gắn liền với biến cố Chúa Kitô trở lại trong vinh
quang. Mẹ Maria được ơn vô nhiễm nguyên tội chính là để góp phần vào việc thực hiện
chương trình cứu độ ấy của Thiên Chúa. Ở đây thần học, phụng vụ, giáo lý và mục vụ
phải được định hướng theo con đường này. Việc mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm chuẩn bị tinh
thần cho tín hữu chờ đợi mừng biến cố Đấng Cứu Thế đến trần gian.
Thứ hai
là lễ Sinh Nhật Đức Mẹ ngày mùng 8 tháng 9, kỷ niệm biến cố Đức
Maria chào đời bất đầu cuộc sống trên trần gian này, và chuẩn bị làm Mẹ Đức Giêsu
Kitô Con Thiên Chúa. Theo mạo thư Phúc Âm thánh Giacôbê Đức Maria là con của ông Gioakim
và bà Anna. Đối với Giáo Hội chính thống đây là một trong 12 lễ lớn nhất. Trong truyền
thống công giáo lễ được cử hành tại nhiều nơi. Trong truyền thống nông nghiệp lễ trùng
với cuối mùa hè và mùa gặt hái. Lễ này ban đầu được cử hành bên Đông Phương sau đó
được Đức Giáo Hoàng Sergio I đưa vào lịch phụng vụ Tây Phương. Ngay từ thế kỷ thứ
X nó đã được cử hành trong giáo phận Milano, và nhà thờ chính tòa Milano do thánh
Carlo Boromeo thánh hiến ngày 20 tháng 10 năm 1572 dâng kính Đức Mẹ sinh ra ”Mariae
nascenti” như được khắc trên mặt tiền nhà thờ.
Cùng với lễ kính và nhà thờ
dâng Đức Maria Bé Thơ người dân Milano cũng sùng kính Đức Mẹ Bé Thơ, và cho tới thập
niên 1960 dân chúng vẫn có thói quen đặt tên con gái là Bambina. Liên quan tới lòng
sùng kính này có sự kiện là giữa các năm 1720-1730 có một nữ tu Phanxicô tỉnh Todi
trung bắc Italia là chị Chiara Isabella Fornari, làm một vài bức hình bằng sáp diễn
tả Đức Maria sơ sinh cuốn băng vải, do lòng sùng mộ cá nhân. Năm 1730 một bức hình
bằng sáp này được tặng cho các nữ tu dòng Capucino Thánh Maria các thiên thần ở Milano.
Và các nữ tu đã phổ biến lòng sùng kính Đức Maria Bambina, Maria Bé Thơ. Lòng sùng
kính lan nhanh khắp nơi và sau nhiều di chuyển, hình Đức Mẹ sau đó được giữ trong
nhà mẹ dòng các nữ tu Lovere, cũng trong tỉnh Milano. Hình Đức Maria Bambina lôi cuốn
tín hữu và trở thành nổi tiếng đến độ người dân gọi các nữ tu là các nữ tu Đức Maria
Bambina. Đức Maria Bé Thơ cũng là Bổn Mạng của nhiều thành phố trên đảo Sicilia nam
Italia, đặc biệt là Enna và Palermo.
Thứ ba là lễ Dâng Đức
Mẹ vào Đền Thánh, ngày 21 tháng 11. Lễ này bắt nguồn từ mạo thư
Phúc Âm thánh Giacôbê. Chương 6 của sách kể lại khi Đức Maria lên 1 tuổi thì được
cha mẹ giới thiệu với các Tư tế của Đền Thờ và năm lên 3 tuổi được dâng vào Đền Thờ
để sống với các trinh nữ và lớn lên tại đây cho tới khi gặp ông Giuse. Tác giả kitô
đầu tiên cho biết Đức Maria được dâng vào Đền Thánh năm lên 3 tuổi, như hai ông bà
Gioakim và Anna đã hứa với Thiên Chúa, khi xin cho ông bà có con, vì hai người hiếm
muộn.
Ngày 21 tháng 11 là bắt nguồn từ biến cố thánh hiến vương cung thánh
đường Thánh Maria Mới tại Giêrusalem, do hoàng đế Giustiniano I xây cho Đức Giám Mục
Elia. Việc cử hành lễ lần đầu tiên đã có trong lịch Basilio II thành Bisanzio hồi
thế kỷ XI. Vào thời Trung Cổ lễ ít được cử hành hơn, cho tới khi Đức Giáo Hoàng Sisto
V xác định lễ nhớ năm 1585. Giáo Hội công giáo chỉ cử hành như lễ nhớ, trong khi Giáo
Hội chính thống cử hành lễ Dâng Đức Maria vào Đền Thánh như một trong 12 lễ trọng
nhất trong năm phụng vụ. Biến cố này đã gợi hứng cho nhiều họa sĩ vẽ các bức tranh
nổi tiếng qua bao thế kỷ và Đức Maria Bambina cũng trở thành tên gọi của nhiều dòng
tu nam nữ.
Thứ bốn là lễ Truyền Tin cho Đức Mẹ ngày 25 tháng
3. Việc lấy lại tên gọi ”Truyền tin của Chúa” cũng có một ý nghĩa thần học khác
và một cách phụ thuộc cũng là lễ của Đức Maria. Thiên thần Gabriel báo tin cho Đức
Maria biết Con Thiên Chúa nhập thể làm người nơi cung lòng Trinh Nữ. Giáo Hội công
giáo và Giáo Hội chính thống mừng cùng ngày với nhau. Ngày lễ được xác định quy chiếu
theo ngày sinh của Chúa Giêsu, tức 9 tháng trước lễ Giáng Sinh và chỉ theo truyền
thống của Giáo Hội, chứ không có các quy chiếu chính xác trong các Phúc Âm. Và lễ
này được thiết định sau lễ Giáng Sinh, là lễ đã được thiết định mừng vào ngày 25 tháng
12 bên Tây Phương hồi giữa thế kỷ thứ IV và bên Đông Phương vào cuối thế kỷ thứ IV.
Việc sắp xếp này cũng có ý nghĩa thần học và phụng vụ. Tuy sự kiện nó gần lễ Phục
Sinh cũng gây ra khó khăn, y như lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền Thánh ngày 2 tháng 2
vậy.
Lễ Truyền Tin là lúc khởi đầu lịch sử của biến cố Chúa Giêsu Kitô Con
Thiên Chúa nhập thể làm người để cứu chuộc nhân loại, và như thế cũng là biến cố khai
mào lịch sử cứu độ. Nó rơi vào lúc trong truyền thống do thái bắt đầu năm tôn giáo,
nghĩa là trong tháng Nisan, tức tháng 3 tháng 4. Và cho tới thời Trung Cổ thì ngày
25 tháng 3 cũng là ngày ghi dấu khởi đầu năm phụng vụ của Kitô giáo. Sau đó thì lúc
khởi đầu này di chuyển sang ngày lễ Giáng Sinh và tiếp đến là vào mùa Vọng, nhưng
mà nó cũng là lúc khởi đầu của năm dân sự, chẳng hạn như năm dân sự của thành phố
Firenze trung Italia. Sự kiện này cũng trở thành thuận tiện vì các trùng hợp với các
chu kỳ của tinh sao nữa. Thật vậy, nếu lễ Giáng Sinh đã được cố ý sắp trùng với đông
chí, thì lễ Truyền Tin được sắp trùng với xuân phân.
Trên bình diện phụng
vụ, trái với điều người ta thường nghĩ, lễ Truyền tin là một lễ của Chúa chứ không
phải là lễ của Đức Mẹ, mặc dù Đức Mẹ là nhân vật chính của trình thuật thiên thần
Gabriel được Thiên Chúa sai đến hỏi ý kiến của trinh nữ Maria, một trinh nữ nghèo
và khiêm hạ làng Nagiarét; nghèo và tầm thường đến độ sau này khi Chúa Giêsu về rao
giảng Tin Mừng tại đây, người dân lấy làm bỡ ngỡ không tin, vì Người chỉ là bác thợ
mộc con bà Maria.
Trong truyền thống Giáo Hội lễ Truyền Tin ghi dấu biến cố
nhập thể của Ngôi Lời Con Thiên Chúa. Qua sự đồng ý và tiếp nhân của Đức Maria, Đấng
Vĩnh Cửu bước vào thời gian và trở thành lịch sử. Sứ mệnh cứu thế của Đức Giêsu đã
bắt đầu trong cung lòng Trinh Nữ Maria, như trình thuật Đức Maria viếng thăm bà Elidabét
chứng minh: Gioan trong bụng mẹ đã nhảy mừng khi Đức Maria chào bà Elidabét, và Đức
Maria cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa đã làm những việc kỳ diệu nơi Mẹ. Chính biến
cố Thiên Chúa nhập thể làm người này khiến cho Kitô giáo khác xa tất cả mọi tôn giáo
khác. Thiên Chúa xuống thế làm người và sinh ra sống như con người, chỉ trừ tội lỗi.
Từ đó chương trình tình yêu cứu rỗi bắt đầu được thực hiện từng bước.
Trên
bình diện tu đức lời ”Fiat xin vâng” của Đức Maria gợi lại tiếng ”Này con đây” của
tổ phụ Abraham, của Ông Môshê, của ngôn sứ Samuel và các ngôn sứ khác, tức các người
đã cộng tác với Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Sự ngoan ngoãn vâng theo ý muốn của
Thiên Chúa sẽ là đề tài được các ngôn sứ rao giảng. Và chính Chúa Giêsu cũng sẽ lập
lại rằng ”Không phải những ai nói lậy Chúa, lậy Chúa, mà được vào Nước Trời đâu, mà
chỉ những ai thi hành ý muốn của Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Tiếng ”xin vâng” của
Mẹ Maria nói lên tất cả thái độ sống, mà mọi tín hữu, đặc biệt là những người sống
đời thánh hiến, phải luôn luôn có đối với Thiên Chúa và chương trình tin yêu cứu rỗi
của Người.