Lời kêu gọi hòa giải giữa hai dân tộc Nga và Ba Lan
Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Henryk Muszynski (2/2)
Trong
các ngày này Đức Kirill, Thượng Phụ chính thống Nga đang viếng thăm Ba Lan. Đây là
lần đầu tiên một vị Thượng Phụ chính thống Mastcvơva sang thăm Ba Lan. Sáng hôm nay
17-8-2012 Đức Kirill và Đức Cha Jozef Michalik, Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ba Lan,
sẽ cùng ký vào lời kêu gọi hai dân tộc Nga và Ba Lan hòa giải với nhau. Lễ nghi sẽ
diễn ra tại lâu đài hoàng gia trong thủ đô Varsava. Lời kêu gọi này đã được một ủy
ban hỗn hợp của hai bên soạn thảo trong hơn hai năm trời. Nó không phải là một lời
xin lỗi, nhưng là lời mời gọi hai dân tộc đọc lịch sử xung khắc giữa hai bên trong
viễn tượng Kitô.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn phần hai
bài phỏng vấn Đức Cha Henryk Muszynski, nguyên Tổng Giám Mục Gniezno, về buổi lễ ký
và nội dung lời kêu gọi này.
Hỏi: Thưa Đức Cha, lời kêu gọi
này cũng là lời kêu gọi chung của hai Giáo Hội công giáo Ba Lan và chính thống Nga.
Nó hệ tại điều gì?
Đáp: Đức Tổng Giám Mục Hilarion,
hướng dẫn phái đoàn Nga soạn thảo tài liệu đã nhiều lần nói tới việc cần thiết tạo
ra một liên minh giữa các Giáo Hội chính thống và công giáo để bảo vệ các giá trị
Kitô, chống lại khuynh hướng thờ ơ gia tăng trong thời đại chúng ta, và khuynh hướng
tục hóa lan tràn. Đức Cha cũng nhấn mạnh rằng các thách đố mà thế giới ngày nay đưa
ra cho các Giáo Hội của cả hai bên giống nhau.
Trong khi soạn thảo tài liệu
chung, chúng tôi đã cố gắng biên soạn từ một góc cạnh tích cực, và nhấn mạnh một cách
chính xác rằng trong niềm tôn trọng sự độc lập của quyền bính dân sự, chúng tôi kêu
gọi đối thoại với nhau và khoan nhượng, chúng tôi kêu gọi tín hữu đáp trả lại các
thách đố mà cả hai Giáo Hội đều phải đương đầu: bảo vệ phẩm giá con người, quảng bá
các giá trị dựa trêm Mười điều răn, cũng như các điều răn liên quan tới sự thánh thiêng
của sự sống từ khi thụ thai cho tới lúc chết tự nhiên; và vì thế chúng tôi không chấp
nhận phá thai và trợ tử, và chúng tôi bảo vệ sự hiệp nhất của hôn nhân.
Tuy
nhiên, trước hết tài liệu là một lời kêu gọi làm chứng tá chung cho niềm hy vọng của
Chúa Kitô phục sinh đối với toàn Âu châu. Đó là điều Đức Gioan Phaolô II đã kêu mời
trong tông huấn ”Giáo Hội tại Âu châu”.
Chúng tôi coi đó như là bổn phận nền
tảng của các Giáo Hội mgày nay. Và vì chúng tôi có chung lòng sùng kính Mẹ Thiên Chúa
sâu đậm, chúng tôi quy hướng về đó và ý thức về danh dự dành cho Đức Trinh Nữ Maria
và phải làm chứng cho lòng sùng kính đó một cách sống động.
Hỏi:
Thưa Đức Cha, đâu là ý nghĩa của tài liệu này trong lãnh vực
đối thoại giữa Giáo Hội công giáo và Giáo Hội chính thống trên bình diện quốc
tế?
Đáp: Tài liệu này có một ý nghĩa, trong mức độ nó vượt qua
vài hàng rào giữa hai Giáo Hội và đẩy xa các chướng ngại đối với cuộc đối thoại đại
kết. Nhưng chúng tôi không có ý đối thoại trên bình diện thần học, vì đã có ủy ban
hỗn hợp thần học làm việc thường xuyên rồi, chúng tôi không thay thế nó. Sự hiệp nhất
giữa hai Giáo Hội là công trình của Chúa Thánh Thần và hoa trái của lời cầu nguyện
chứ không phải của sự giàn xếp giữa con người với nhau.
Chúng tôi đã nói tới
các con đường dẫn tới sự gần gũi nhau. Vấn đề ở đây là sự vượt thắng những gì đã xảy
ra giữa hai dân tộc và mở ra các con đường cho sự hiệp nhất. Chúng tôi cảm thấy đó
là nhiệm vụ đặc biệt của hai Giáo Hội. Trong nghĩa này, nó là một đóng góp nòng cốt,
bởi vì chúng tôi nhận ra rằng tình yêu thương nảy sinh trái ngược với sự gần gũi địa
lý. Yêu thương một ngừơi Ấn Độ ở xa thì dễ hơn là yêu thương một người ở gần, mà thường
ngày chúng ta có vấn đề trong các tương quan với họ. Chúng tôi ý thức được nhiệm vụ
này, bởi vì hai Giáo Hội của chúng tôi là hai Giáo
Hội chiếm đa số dân tại
Ba Lan và Nga. Vì thế trách nhiệm đối với hai dân tộc cũng lớn hơn là trong trường
hợp của các tôn giáo thiểu số. Do đó chúng tôi kêu gọi vượt thắng tình trạng phức
tạp này và hiệp nhất trước hết là hai Giáo Hội, rồi tất cả các tín hữu và mọi người
có tư tưởng tạo ra một tâm tình chung và các tương quan hòa bình giữa hai dân tộc.
Hỏi: Thưa Đức Cha đâu đã là nguồn gốc của lời kêu gọi
này và việc soạn thảo đã tiến hành ra sao?
Đáp: Tư
tưởng một tài liệu chung đã nảy sinh như sau: Đức Thượng Phụ Kirill đã dự kiến một
chuyến viếng thăm Ba lan trong tư cách là tân Thượng Phụ Giáo chủ chính thống Nga.
Theo truyền thống lâu đời thì Đức Tân Thượng Phụ đi thăm các Giáo Hội chính thống
tự quản khác và các vị lãnh đạo, theo thứ tự cấp bậc trong danh sách đã được thiết
định trong bao thế kỷ liên quan tới các Tòa Thượng phụ, tòa tổng giám mục và giám
mục. Đứng đầu là Tòa Thượng Phụ Constantinople, rồi tới Alessandira, Antiokia, Giêrusalem,
Serbia và các Giáo Hôi khác. Giáo Hội chính thống Ba lan đứng hàng thứ 12 hay 13,
trước Albania, Antiokia và Georgia.
Trong trường hợp ở đây Đức Giáo chủ chính
thống Nga đã làm một luật trừ. Cũng chính vì thế chúng tôi mới nghĩ rằng không đựơc
hạn hẹp trong một chuyến viếng thăm bình thương, mà phải có một cử chỉ đi kèm, một
cử chỉ nền tảng quan trọng. Trong một cách thức nào đó, đã có một loại tiền đồn được
thành lập bởi chuyến viếng thăm đan viện Saint Nil Stolobny của các đan sĩ chính thống
Nga. Đan viện này nằm trên hòn đảo ở hồ Seliger. Các đan sĩ đã đến đây năm 2009. Đan
viện Saint Nil là một trong các đan viện quan trọng nhất của Giáo Hội chính thống
Nga. Dưới thời cộng sản các đan sĩ đã bi trục xuất khỏi đan viện, và trong thời chiến
nó trở thành ”trại Ostachkov” để giam giữ các tù nhân Ba Lan. Các tù nhân này sau
đó bị xử bắn tại Tver, rồi chôn trong rừng gần Mednoe.
Tại Ba Lan các đan
sĩ đan viện Saint Nil đã viếng thăm Varsava, Gniezno, Czestochowa, Plock và các nơi
khác. Tại đan viện Jasna Gora các đan sĩ đã nhận được một icone tức ảnh vẽ trên gỗ
Đức Mẹ Czestochowa, và họ đã đem về đan viện và hứa sẽ xây một nhà nguyện kính các
vị tử đạo Ba Lan.
Hỏi: Câu chuyện đã diễn tiến như
thế nào thưa Đức Cha?
Đáp: Tiếp theo đó đã
có liên lạc thư từ giữa các giới chức của Tòa Thương Phụ Mastcơva và các Giám Mục
Ba lan, một phần dưới hình thức của một bức thư tình bạn mà Đức Cha Hilarion đã gửi
cho tôi. Đức Tổng Giám Mục Hilarion hiện là chủ tịch phân bộ ngoại vụ của Tòa Thượng
Phụ.
Sau đó là các chuyến viếng thăm thường xuyên của các giới chức phân
bộ ngoại vụ của Tòa Thượng Phụ Mastcơva tại Varsava. Đức Tổng Giám Mục Hilarion đã
tham dự một chuyến viếng thăm như vậy. Từ phía chùng tôi, chúng tội đã lấy sáng kiến
trong các buổi thảo luận với các giới chức của Tòa Thượng Phụ; ngoài tôi ra còn có
Đức Cha Stanislaw Budzik khi đó là Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Ba Lan, và hiện nay
là Tổng Giàm Mục Lublin, và Đức Cha Tadeusz Pikus, đặc trách ủy ban đại kết của Hội
Đồng Giám Mục Ba Lan. Mặc dù các cuộc thảo luận đã không đơn sơ, đặc biệt vì các khác
biệt trong việc lượng định nhiều khía cạnh của lịch sử chung, tôi đã học biết rất
nhiều diều liên quan tới việc hiểu biết quan niệm của Giáo Hôi chính thống Nga. Tôi
đã hiểu rằng cho đến nay, một cách vô ý thức, các Giáo Hội của chúng tôi cô lập với
nhau, không biết nhau, và một trong các lý do gây ra tình trạng này là sự dối trá
dưới thời cộng sản, không cho phép hiểu biết sự thật. Chỉ gìơ đây chúng tôi mới có
thể nói chuyện một cách tự do và cởi mở, mặc dầu cho tới nay còn có các lớp thiếu
hiểu biết, các thành kiến và các lời dối trá được lập đi lập lại.
Hỏi:
Thưa Đức cha, vậy chúng ta có thể học hiểu gì về Giáo Hội chính thống Nga?
Đáp: Tôi xin đơn cử một thí dụ cụ thể. Đối với chúng tôi hình ảnh Mẹ Thiên Chúa
chỉ là một hình ảnh, nhưng đối với anh em chính thống Nga đó là một icone, đó là dấu
hiệu sự hiện diện thực sự của Mẹ Thiên Chúa. Trong một dịp nào đó tôi đã nhận được
một bài học tuyệt diệu của các anh em chính thống, mà tôi sẽ nhớ cho đến chết. Họ
đã đem đến cho tôi một icone Đức Bà Czestochowa, do các cha dòng thánh Phaolô tăng
cho đan viện Saint Nil Stolobny. Khi tôi đề nghị ban đêm để ảnh Đức Mẹ lại trong phòng
khách của tòa giám mục Gniezno, thì họ nói với tôi: ”Đức Cha có để mẹ Đức Cha ngoài
hành lang không?” Và thế là chúng tôi đã đặt ảnh Đức Mẹ vào trong nhà nguyện và đọc
chung với nhau một lời kinh, và tôi sẽ biết ơn họ về bài học này cho tới chết.
Hỏi: Ngày 17 tháng 8 có lễ nghi ký lời kêu gọi chung của Hai Giáo Hội. Có cần phải
coi đây là một giới hạn không? Sau đó thì điều
gì sẽ xảy ra?
Đáp: Tôi sẽ thận trọng không gọi nó là ”một giới
hạn”, mà đúng hơn là một khởi đầu, và tôi hy vọng nó sẽ mở ra một giai đoạn mới của
sinh hoạt chung. Một giai đoạn của chứng tá tích cực cho tình huynh đệ của hai Giáo
Hội, chứng tá của tình yêu thương làm thành tiêu chuẩn nền tảng của Kitô giáo. Điều
nòng cốt là chúng tôi phải làm nảy sinh ra nhiều tin cậy hơn giữa các tín hữu và trong
thế giới vây quanh, với lời cầu xin Chúa Thánh Thần, mặc dù vẫn còn có các khác biệt
thực sự giữa hai bên.