Phỏng vấn Linh Mục Enrique Figaredo Alvargonzalez, người
Tây Ban Nha dòng Tên, về kinh nghiệm truyền giáo tại Campuchia
Trong
thời gian qua Vương quốc Campuchia được giới truyền thông chú ý, vì đã là nơi tổ chức
ASEAN nhóm hội nghị dưới quyền chủ tịch theo lượt của chính quyền Phnom Penh. Báo
chí thế giới nhòm ngó Campuchia vì lập trường trung lập của Campuchia đối với vấn
đề nóng bỏng tranh chấp Biển Đông. Thật ra, vì Campuchia nhận được viện trợ của Trung
Quốc, nên đã không lên tiếng ủng hộ Việt Nam và Philippines chống lại yêu sách hoàn
toàn vô lý, trịch thượng của Trung Quốc, lấy thịt đè người, coi toàn Biển Đông là
của mình.
Bản đồ ”Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ”, tức là toàn bản đồ
địa dư tới các tỉnh của Trung Hoa, được thực hiện dưới thời nhà Thanh, in năm 1904,
ghi rõ cực nam của Trung Hoa là đảo Hải Nam. Việc ”trơ trẽn nhận vơ” toàn Biển Đông
gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thuộc Trung Quốc, chỉ là cách ”ỷ mình lớn
mạnh cướp của người yếu làm của mình”, hoàn toàn trái nghịch với luật lãnh hải quốc
tế.
Tuy nhiên, Campuchia được thế giới biết đến vì lịch sử thương đau và cuộc
diệt chủng dưới thời chính quyền cộng sản Polpot và Khmer Đỏ, khiến cho gần 2 triệu
người bị sát hại, trong có có cả các Giám Mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, các giáo lý
viên, và giới trung lưu, trí thức sinh viên học sinh. Nhưng sau những năm đen tối,
tủi nhục với nạn diệt chủng kinh hoàng, Campuchia đã từ từ trở thành một quốc gia
rộng nở cho nền dân chủ đa đảng.
Campuchia rộng hơn 181 ngàn cây số vuông
có khoảng 15 triệu dân, 96% theo Phật giáo là quốc giáo, 2% là người Cham theo Hồi
giáo và 1% theo Kitô giáo. Năm 1953 Campuchia được độc lập khỏi chế độ bảo hộ của
Pháp và do Hoàng thân Sihanouk lãnh đạo. Năm 1967 lực lượng cộng sản Khmer Đỏ theo
Mao Trạch Đông dấy động vụ nổi dậy khiến cho Campuchia rơi vào cảnh nội chiến. Năm
1969 Hoàng thân Sihanouk giao quyền cho tướng Lon Nol. Ngày 18 tháng 3 năm 1970, tướng
Lon Nol đảo chánh, khiến cho Hoàng thân Sihanouk phải sống lưu vong bên Matscơva rồi
bên Bắc Kinh. Tướng Lon Nol thành lập Cộng hòa Khmer, được Hoa Kỳ yểm trợ, nhưng sau
đó năm 1973 bị Hoa Kỳ phản bội bỏ rơi. Và thế là Polpot và quân Khmer Đỏ, được Trung
Quốc yểm trợ, tiến chiếm Phnom Penh ngày 17-4-1975.
Polpot và Khmer Đỏ áp
dụng chính sách cộng sản ”triệt để và sắt máu” hơn Liên Xô và Trung Quốc. Đêm 17 rạng
ngày 18 tháng 4 năm 1975 toàn dân thủ đô Phnom Penh bị đẩy vào các trại cải tạo ở
vùng quê. Cuộc diệt chủng bắt đầu và trong các tháng ngày sau đó ruộng đồng trên toàn
nước Campuchia đầy máu và xác người.
Năm 1978 Việt Nam xua quân xâm lăng Comphuchia
và tàn phá ruộng đồng khiến cho chế độ độc tài Polpot và Khmer Đỏ sụp đổ. Việt Nam
đặt lên một chính quyền bù nhìn và tái tổ chức Campuchia theo kiểu mẫu cộng sản Lào
và Việt Nam. Trong thập niên 1980 người dân Camphuchia thiếu lương thực, thuốc men
và bị suy dinh dưỡng nên chết rất nhiều.
Năm 1989 Việt Nam rút lui khỏi Campuchia
và năm 1990 Liên Hiệp Quốc gửi lực lượng bảo hòa tới. Thủ tướng Hun Sen, do Việt Nam
đặt lên, đã cai trị Campuchia từ đó tới nay, sau ba lần thắng cử. Đối thủ chính của
ông là Sam Rainsy lưu vong sang Paris năm 2005. Vua Norodom Sihanpouk trở lại nắm
quyền từ năm 1993 nhưng năm 2004 đã thoái vị lần thứ hai và nhường ngôi cho thái tử
Norodom Sihamoni. Năm 2011 các tranh chấp biên giới với Thái Lan liên quan tới đền
Preah Vihear khiến cho Campuchia đụng độ với quân đội Thái.
Ngày nay Campuchia
là một quốc gia dân chủ đa đảng đang phải cố gắnmg rất nhiều trong việc tái thiết
và chữa lành các vết thương quá khứ.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị
và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Enrique Figaredo Alvargonzalez, người Tây Ban Nha,
dòng Tên, về kinh nghiệm truyền giáo bên Campuchia. Cha Enrique năm nay 52 tuổi đã
làm việc truyền giáo tại Campuchia từ hơn 25 năm qua.
Hỏi: Thưa
cha Enrique, Cha đã gia nhập Tập viện của dòng Tên năm lên 20 tuổi.
Thế cha qua Campuchia khi nào, và tại sao cha lại chọn làm việc truyền giáo tại Campuchia?
Đáp: Hồi đó tôi đang tìm gặp gỡ Thiên Chúa và tôi đã làm điều này trong Tập viện
dòng Tên và khi tôi học triết học. Tuy nhiên, sau khi học xong ngành kinh tế, tôi
đã muốn cho các con số mình học có một gương mặt, và tôi trình bầy với Cha Giám tỉnh
rằng tôi muốn làm việc thiện nguyện cho người tị nạn và muốn tìm hiểu họ. Chúa Giêsu
Kitô khổ đau trong thế giới, và tôi nghĩ rằng các anh chị em tị nạn này sẽ giúp tôi
hiểu sống giống Chúa Giêsu Kitô là như thế nào. Tôi sẵn sàng làm mọi việc, và một
ngày nọ tôi nhận được một lá thư từ Bangkok của Văn phòng trợ giúp người tị nạn của
dòng Tên. Thư viết: ”Chúng tôi chờ thầy ở đây ngày mùng 1 tháng 9”. Lúc đó là tháng
5 tôi còn đang phải dọn thi, nên rất là xúc động.
Hỏi: Hồi đó Campuchia
vần còn đang có chiến tranh, có đúng thế
không thưa cha?
Đáp: Vâng, đúng thế. Tôi đã phải nhìn vào bản đồ
để xem Campuchia nằm ở đâu. Các hình đầu tiên của người Campuchia đều cho thấy họ
quấn khăn Krama, là chiếc khăn rằn ri, như tôi đang mang bây giờ. Khăn Krama là chiếc
khăn đa dụng: để lau mồ hôi, để che nắng mặt trời, để lau mặt hay để làm võng cho
con nít ngủ. Nếu chúng tôi phải chọn một biểu tượng cho Campuchia, thỉ chúng tôi sẽ
chọn chiếc khăn Krama. Vì thế khi tôi quàng khăn Krama, thì cũng y như là tôi mang
nước Campuchia theo tôi, như trong các hình người tị nạn Campuchia đầu tiên mà tôi
đã trông thấy. Mọi người đều quàng khăn Krama, và sự kiện này đã đánh động tôi rất
nhiều.
Hỏi: Cha đã tới Campuchia năm 1985: thế
cảm tưởng đầu tiên của cha là gì?
Đáp:
Trước hết là sự sợ hãi. Tôi sợ đến chết được. Khi tôi đi đến các trại tị nạn,
thật là một cuộc phiêu lưu. Phải qua năm trạm kiểm soát của quân đội, và mỗi một lần
như thế thì tình hình lại càng đáng lo lắng hơn. Các binh sĩ mặc đồ đen, không có
một nụ cười, và họ hỏi giấy chúng tôi một cách tàn bạo. Khi tôi tới được cổng trại
tị nạn, tôi sẽ không bao giờ quên điều đó, lúc hàng rào chắn mở ra, chúng tôi đã bước
vào. Trước mắt tôi bất thình lình là các trẻ em ăn mặc rách rưới, đi chân đất, nhưng
rất tươi vui. Tôi nhớ có rất nhiều niềm vui, niềm vui và sự sống, sự sống... sự sống
tràn đầy, trong khi các em bị nhốt trong một trại tị nạn, có thể nói là như những
người tù chiến tranh.
Hỏi: Thưa cha, vậy thì điều
gì xảy ra sau đó?
Đáp: Tôi tới thăm viếng họ và tôi đã được
ông Jhaimet là trưởng trại tiếp đón. Tôi nhớ rất rõ: ông đứng với hai cái nạng, vì
chỉ còn có một chân, chân kia thì bị thương nặng nên bị cưa, và ông cũng chỉ còn có
một mắt. Tôi không biết nói tiếng Campuchia, nhưng có một chú bé làm thông dịch viên
cho tôi. Ông ta nói: ”Chúng tôi đã nghe nói là cha tới đây để giúp chúng tôi”, và
tôi sợ đến chết được, tôi trả lời ”Phải, phải”. Ông ta trả lời: ”Vậy thì xin cha đừng
lo lắng, tôi sẽ nói cho cha biết chúng tôi cần cái gì”. Ngay lúc đó, tôi cảm thấy
một sự bình an mênh mông, để nói rằng ông Jhaimet đã là tiếng Thiên Chúa nói với tôi:
”Xin cha đừng lo lắng, chúng tôi chào mừng cha đến với chúng tôi, chúng tôi yêu cha”.
Hỏi: Thưa cha, trong các trại tị nạn này đa số dân là
phật tử, như trong nước Campuchia, có phải thế không?
Đáp: Vâng, đúng thế, đa số họ theo đạo Phật. Dĩ nhiên, cũng có tín hữu công giáo
nhưng ít lắm. Ngoài ra, chiến tranh cũng là lý do khiến cho tín hữu công giáo biến
mất. Rất nhiều người đã bị giết chết: các linh mục, các giám mục, tất cả mọi người
bị tàn sát. Trong các trại tị nạn còn có một số sót của Israel, của Kitô giáo, của
các gia đình bé nhỏ, thường không có cha. Đa số các phụ nữ góa chồng, và rất thường
khi cả người cha gia đinh cũng đã biến mất. Các trẻ em là con của những người công
giáo, nhưng không được dậy dỗ gì, và các em rất cần được trợ giúp một cách đặc biệt.
Hỏi: Trong lễ nghi đặt cha làm Phủ doãn tông tòa, có một phụ nữ sống
sót đã lên làm chứng tá và đã nói về Giáo Hội Campuchia
trong 30 năm qua đã như là một Giáo Hôi của máu vá nước
mắt. Bà ấy muốn ám chỉ các bách hại mà quân Kmer Đỏ của Polpot
đã gây ra cho Giáo Hội, bởi vì Giáo Hội Campuchia là một Giáo Hội tử
đạo, có phải thế không thưa cha?
Đáp: Vâng, đúng
vậy. Giáo Hội Campuchia là một Giáo Hội tử đạo. Giáo Hội đã hoàn toàn bị triệt hạ.
Như tôi đã nói trên đây, tất cả các vị lãnh đạo Giáo Hội: các giám mục, linh mục,
tu sĩ nam nữ và nhiều giáo lý viên đã bị sát hại. Những người đã không bị giết, thì
đã chết vì đói khát và bệnh tật. Và tình hình Giáo Hội rất là thể thảm. Ngày nay,
chúng tôi đã có các các nơi tưởng niệm các vị tử đạo. Chúng tÔi cử hành lễ tưởng niệm
các vị vào hai ngày mùng 7 và mùng 8 tháng 5. Tuy nhiên, khi tưởng nhớ các vị tử đạo
của mình, chúng tôi cũng lớn lên trong đức tin, bởi vì các vị tử đạo này đã chết với
một đức tin sống động. Đức Cha Paul Tep Im Sotha, Phủ doãn tông tòa đầu tiên của Battambang
mà tôi kế vị, đã cử hành thánh lễ và chúc lành cho tất cả mọi tín hữu hai ngày trước
khi chết. Ngài nói với họ: ”Các thời gian khó khăn sẽ tới, anh chị em hãy chăm sóc
đức tin của mình và hãy săn sóc đức tin của người khác”. Sau khi dâng thánh lễ Đức
Cha đã lên một chiếc xe và đã bị giết. Đức Cha Joseph Chhamar Salas, Giám Mục Phnom
Penh, đã được chỉ định làm Giám Mục bốn ngày trước khi quân Khmer Đỏ tiến vào thủ
đô. Ngài đã bị bắt đi lao động như mọi người và Tòa Giám Mục của ngài đã ở giữa ruộng.
Hỏi: Đó có phải là một loại các trại tập trung hay không thưa
cha?
Đáp: Đúng thế, và trong các trại tập trung này, Đức Cha đã
làm việc như một mục tử và đi thăm các tín hữu công giáo. Đức Cha đã cầu nguyện và
cử hành Thánh lễ, mặc dù có rất nhiều hạn chế. Đức Cha đã lo lắng cho dân chúng như
một người nghèo và đã chết vì đói và bệnh tật. Nhưng khi Đức Cha qua đời, các người
thân của ngài đã lấy thánh gía đeo ngực của Ngài và dân chúng đã tụ tập nhau lại để
cầu guyện chung quanh cây thánh gía của Đức Cha Salas.
Hỏi: Thưa
cha, hiện nay Giáo Hội Campuchia không còn là một Giáo Hội tử đạo
nữa, nhưng vẫn là Giáo Hội đau khổ, có đúng thế
không?
Đáp: Vâng đúng vậy. Sau khi Polpot qua đời, một chế độ cộng
sản phò Việt Nam đã được thiết lập, và cũng đã gây ra rất nhiều đau khổ cho dân chúng.
Nó đã không đem lại tự do tôn giáo và dân chúng vẫn tiếp tục bị thử thách và khổ đau
vì nghèo đói. Nhưng ký ức về các vị tử đạo trao ban cho chúng tôi một sức mạnh lớn
lao, bởi vì chúng tôi đã trông thấy họ hiến thân trong đau khổ, và các tín hữu công
giáo chúng tôi cũng đã đau khổ nhiều, và ngày nay họ là các chứng nhân bằng chính
đời sống của họ.