KHÔNG NGOẢNH MẶT LÀM NGƠ TRƯỚC NGƯỜI ANH EM CỐT NHỤC!
... (Cha François Laborde, 85 tuổi người Pháp, từ 47 năm nay là thừa sai phục
vụ dân nghèo tại Ấn Độ).
Tôi tin rằng chính Đức Chúa Thánh
Thần đã đưa tôi đến Ấn Độ. Với tư cách Linh MụcHội Prado
- mà ơn gọi là chia sẻ Phúc Âm với dân nghèo và khám phá Phúc Âm với dân
nghèo - tôi nghĩ rằng Calcutta, một thành phố với 18 triệu dân, mời gọi tôi. Ấn
Độ có 1 tỷ 200 triệu dân trong đó gần 40% - tức khoảng hơn 500 triệu người - sống
dưới mức nghèo đói cùng cực.
Vào năm 1965, trong chiếc áo chùng trắng, khi
đặt chân lên Ấn Độ, tôi nghĩ là mình muốn làm một chút gì đó hơi hơi giống như Đức
Chúa GIÊSU: sống với dân và khám phá ra việc nhập thể. Trong vòng 30 năm, Đức Chúa
GIÊSU học cách sống - với tư cách Con Người - giữa những người dân thành Nagiarét.
Người nghèo có điều gì đó mặc khải cho chúng ta. Thật vậy, hồi ấy tôi đến Ấn Độ với
ý hướng tìm hiểu về những người sống ngoài lề xã hội. Người ta khuyên tôi nên xuống
miền Nam. Tại đây tôi nghiên cứu về các nhóm người bị loại trừ khỏi xã hội và sống
nơi các khu ổ chuột tồi tàn, trong các chòm xóm khốn khổ, tại các làng mạc cùng đinh
hay nơi làng các người đánh cá. Các học hỏi này giúp tôi hiểu về cách cấu tạo xã hội
của Ấn Độ. Sau đó tôi cảm thấy được chuẩn bị đủ để có thể lên sống tại Calcutta trong
một cái lều nhỏ nơi khu ổ chuột. Tôi ở đó trong vòng 8 năm rưỡi.
Đây là chặng
khởi đầu cho nếp sống chung đụng với dân nghèo. Tôi thường nói là tôi ra đi để truyền
giáo cho người nghèo, nhưng chính người nghèo đã truyền giáo cho tôi. Vì thế tôi có
thể kết luận: - Chúng ta chỉ có thể khám phá ra chiều sâu thăm thẳm
của Phúc Âm qua trung gian của người nghèo.
Thật vậy, khi
tôi chia sẻ nếp sống với người nghèo thì chính người nghèo mang lại cho tôi rất nhiều
điều. Một ngày, một Linh Mục dòng Tên đến thăm tôi và nói: - Nếu Cha muốn, chúng
con có thể cung cấp các phần ăn miễn phí cho trẻ em nghèo.
Tôi liền xin giáo
dân trong khu ổ chuột đứng ra nhận trách nhiệm phân phát thức ăn. Trong khu ổ chuột
này chỉ có một nơi duy nhất có thể lấy nước. Rồi chỉ có hai hay ba nhà vệ sinh cho
từng 20 gia đình. Như vậy, các nhu cầu sơ đẳng tối thiểu, còn thiếu rất nhiều, nhiều
lắm! Tôi liền hỏi ý kiến: - Anh chị em muốn chúng ta khởi hành từ đâu?
Họ
đồng thanh trả lời ngay: - Chúng con ao ước có các buổi học ban tối
dành cho trẻ em. Bởi lẽ gởi chúng đến trường trong những
hoàn cảnh như thế này thì thật là chuyện không thể thực hiện
được!
Câu trả lời tỏ lộ nỗi niềm thao thức sâu xa của người nghèo,
những kẻ bị xã hội khinh bỉ xem như hạng cùng đinh. Họ mong muốn cho con cái có một
nền giáo dục cần thiết hầu có thể vươn lên, thoát ra khỏi cái cảnh bần cùng khốn khổ
họ đang ngụp lặn trong đó! Họ nghèo nhưng vẫn giữ nguyên tư cách và nguyện ước đúng
đắn nhất của con người bình thường.
Tại các khu ổ chuột cũng như tại vài nơi
khác, chúng tôi đã thành lập những Tổ Ấm cho các trẻ em tàn tật và một Xe Cứu Thương
lưu động đi vào những khu vực nghèo khổ nhất. Xe Cứu Thương này được sự trợ giúp hợp
tác của các bác sĩ người Đức. Nhưng tôi muốn trở lại với các khu ổ chuột để nhấn mạnh
rằng đây là nơi chốn trộn lẫn khác thường giữa các tín đồ hồi giáo, ấn giáo và một
ít Kitô hữu. Tôi khám phá ra dân nghèo ở đây vẫn còn giữ ý niệm về THIÊN CHÚA mà ở
Tây Phương đã bị đánh mất. Chẳng hạn, một người thợ khi may mắn có được việc làm đều
đặn thì điều đầu tiên ông làm là đem tiền lương lãnh được đặt trên bàn thờ và nói:
- Đúng thế, đây là hoa quả của lao công và tranh đấu
của con, nhưng nó là ơn lành của THIÊN CHÚA.
Sau đó thì
ông giao trọn số tiền cho vợ. Đó là những tác động hoàn toàn nhưng-không nhưng làm
cho cuộc sống mang một phẩm chất và một nét đẹp khác. Rồi còn có tổng hợp các lời
cầu nguyện, bởi vì, trong một khu ổ chuột đông đúc như thế, có rất nhiều khốn cùng,
hoạn nạn và chết chóc.
Tổng hợp khốn khổ là một ân huệ, một bổ túc để Vị Linh
Mục dâng hiến THIÊN CHÚA khi cử hành Thánh Lễ và xin Ngài đoái thương đoàn dân khốn
khổ cùng cực đến như thế nào.
Trong xã hội hiện nay, khó nghèo không phải
là một nhân đức khắc khổ nhưng là một nhân đức hiệp thông. Để trở thành đích thật
là người anh em - không phải bằng tên nhưng là môn đệ - của Đức Chúa GIÊSU KITÔ, tôi
nghĩ là chúng ta nên bằng lòng với những gì chúng ta cần có. Được như vậy quả là rất
tốt. Rồi chúng ta nên biết lắng nghe người khác, dành thời giờ và những cử chỉ đơn
sơ nhỏ nhặt để dâng tặng những ai đang cần đến. Chúng ta nên cho một chút tình yêu
và một chút sự đơn sơ giản dị. Tôi nghĩ vấn đề hệ tại nơi việc chúng ta biết mở rộng
trái tim rồi Đức Chúa Thánh Thần sẽ dẫn lối chỉ đường cho chúng ta đi. Hãy hết sức
thuần thục vâng lời Đức Chúa Thánh Thần: biết tiếp nhận tha nhân để dâng hiến. Chúng
ta chỉ có thể dâng những gì chúng ta nhận và chúng ta nhận được rất nhiều qua các
anh chị em nghèo.
... ”Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là
thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho
người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia
cơm cho người đói, rước vào nhà những người
nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh
mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ
ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết
thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ
mở đường phía trước, vinh quang THIÊN CHÚA bao bọc
phía sau ngươi. Bấy giờ ngươi kêu lên, THIÊN CHÚA sẽ nhận lời,
ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ”Có Ta
đây!” Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm,
cử chỉ đe dọa và lời nói hại người, nếu ngươi nhường
miếng ăn cho kẻ đói, làm thỏa lòng người
bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu tỏa trong bóng tối, và tối
tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. THIÊN CHÚA sẽ không ngừng
dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người
sẽ cho ngươi được no lòng; xương cốt ngươi, Người
sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn
được tưới đẫm như mạch suối không
cạn nước bao giờ” (Isaia 58,6-11).
(”Église Fréjus-Toulon”,
Le Mensuel de l'Église Catholique du Var, No 156, Novembre 2011, trang 297-299)