Mục vụ bác ái cần được thấm nhuần bởi việc chiêm niệm
Mục vụ bác ái thời Giáo Hội khai sinh dậy cho chúng ta biết rằng không có lời cầu
nguyện, thì hoạt động của chúng ta bị giản lược thành chủ trương duy hoạt động và
chúng ta có nguy cơ bị ngộp thở trong các công việc thường ngày.
Đức Thánh
Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên trong buổi tiếp kiến chung hơn 50.000 tín
hữu và du khách hành hương năm châu tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 25-4-2012.
Ngoài các đoàn hành hương đến từ Bắc Mỹ và Âu châu, có các đoàn hành hương đến từ
các nước Á châu như Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Philippines. Từ Phi châu có đoàn
hành hương Nigeria. Từ Châu Mỹ Latinh có các đoàn hành hương Mehicô, Guatemala, Venezuela
và Brasil.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài mục vụ bác
ái đối với các người neo đơn và cần được trợ giúp, như kể trong chương 6 sách Công
Vụ. Hồi đó Giáo Hội gia tăng nhân số và các tín hữu nói tiếng Hy Lạp than phiền chống
lại các tín hữu gốc Do thái, vì các bà góa của họ bị bỏ quên trong việc phân phát
lương thực hằng ngày (Cv 6,1).
Vấn đề không phụ thuộc đối với Giáo Hội và
có nguy cơ gây chia rẽ trong lòng cộng đoàn. Đứng trước sự cấp thiết của tình bác
ái đối với các người yếu đuối, người nghèo, không được bênh đỡ và vì đức công bằng,
các Tông Đồ triệu tập toàn cộng đoàn môn đệ lại để giải quyết vấn đề. Đức Thánh Cha
nói:
Các vị đứng trước đòi hỏi đầu tiên loan báo Lời Chúa theo lênh truyền
của Chúa nhưng, cả khi đó là đòi hỏi đầu tiên của Giáo Hội, các vị cũng nghiêm chỉnh
cứu xét nhiệm vụ bác ái và công bằng, nghĩa là bổn phận trợ giúp các bà góa, người
nghèo, yêu thương lo lắng cho các tình trạng túng thiếu của các anh chị em khác, để
đáp trả lại lệnh truyền của Chúa Giêsu: các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương các con (x. Ga 15,12.17).
Như thế cần phải tìm ra một giải pháp cho
hai thực tại, mà Giáo Hội cần phải sống và đang gây ra khó khăn: đó là việc loan báo
Lời Chúa, quyền tối thượng của Thiên Chúa và tình bác ái cụ thể và công lý. Suy tư
của các Tông Đồ rất là rõ ràng, các vị họp cộng đoàn lại và nói: ”Chúng tôi mà bỏ
việc rao giảng Lời Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. Vậy thưa anh
em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bẩy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn
ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên
lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,2-4).
Có hai điều xuất hiện
ở đây: thứ nhất, hồi đó trong Giáo Hội có một thừa tác bác ái. Giáo Hội không chỉ
loan báo Lời Chúa, mà cũng thực hiện Lời Chúa nữa là lòng bác ái và sự thật. Thứ hai,
các người này không phải chỉ có tiếng tốt, mà còn phải là những người tràn đầy Chúa
Thánh Thần và khôn ngoan, nghĩa là họ không thể chỉ là những người tổ chức biết làm,
mà phải làm trong tinh thần của đức tin với ánh sáng của Thiên Chúa, trong sự khôn
ngoan của con tim, và cả khi nhiệm vụ của họ trước hết là thực tế đi nữa, nó cũng
là một nhiệm vụ tinh thần. Bác ái và công lý không chỉ là các hoạt động xã hội, mà
cũng là các hoạt động tinh thần, được thực hiện trong ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Như thế, các Tông Đồ đã đương đầu với tình hình này với tinh thần trách nhiệm cao
độ.
Bẩy người đã được tuyển chọn, và các Tông Đồ đã cầu nguyện để xin sức
mạnh của Chúa Thánh Thần và đặt tay để họ tự tận hiến cách đặc biệt cho việc phục
vụ bác ái này. Như vậy các bước đầu của cuộc sống Giáo hội, trong một nghĩa nào đó,
phản ánh những gì đã xảy ra trong cuộc sống công khai của Chúa Giêsu, trong nhà Marta
và Maria ở Bêtania. Marta thì bận rộn lo lắng phục vụ Chúa Giêsu và các môn đệ, Maria
trái chăm chú lại lắng nghe Lời Chúa (x. Lc 10,38-42). Trong cả hai trường hợp, các
lúc cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa không đối chọi với hoạt động thường ngày và việc
thực thi bác ái. Việc hoạt động cho tha nhân không bị kết án, nhưng đàng khác nó phải
được thấm nhuần bên trong bởi tinh thần chiêm niệm. Phải có sự chiêm ngắm Thiên Chúa
trong hoạt động thường ngày. Đức Thánh Cha giải thích điểm này như sau:
Chúng
ta không được đánh mất chính mình trong chủ trương hoạt động thuần túy, nhưng phải
luôn luôn để cho ánh sáng của Lời Chúa thấm nhập vào hoạt động của chúng ta, và như
thế học tình bác ái đích thực, học việc phục vụ tha nhân đích thực, là điều không
cần tới nhiều sự - dĩ nhiên là phải có những gì cần thiết - nhưng nhất là cần lòng
trìu mến của con tim, cần ánh sáng của Thiên Chúa.
Chú thích giai thoại hai
chi em Marta và Maria thánh Ambrogio khích lệ các tín hữu cũng tìm những gì không
thể bị lấy mất đi, bằng cách chú ý tới Lời Chúa, mà không lo ra; vì cũng xảy ra là
hạt giống của lời thiên quốc bị đem đi mất, nếu được gieo dọc lối đi. Hãy noi gương
Maria kích thích ước muốn hiểu biết, vì nó là công trình lớn lao và hoàn thiện nhất
(Expositio Evangelii secundum Lucam, VII, 85: PL 15,1720).
Đây là một nhắc
nhở cho chúng ta ngày nay, thường quen đánh giá mọi sự theo tiêu chuẩn sản xuất và
hiệu năng. Văn bản sách Công Vụ nhắc cho chúng ta biết tầm quan trọng của việc làm
- vì có cả một bộ được thành lập cho lao động - tầm quan trọng của sự dấn thân trong
các hoạt động thường ngày với tinh thần trách nhiệm và sự tận tụy, nhưng nó cũng nhắc
cho chúng ta biết chúng ta cần Thiên Chúa, cần sự hướng dẫn và ánh sáng của Chúa trao
ban sức mạnh và hy vọng cho chúng ta. Nếu không có lời cầu nguyện thường ngày, được
sống với lòng trung thành, việc làm của chúng ta trống rỗng, vô hồn, và bị giản lược
vào chủ trương hoạt động, sau cùng khiến cho chúng ta không được thỏa mãn.
Đức Thánh Cha nói tiếp trong bài huấn dụ: có một lời cầu rất đẹp như thế này: ”Lậy
Chúa, xin soi sáng cho chúng con biết việc phải làm, và khi làm xin Chúa giúp đỡ,
để mọi lời nói và việc làm của chúng con luôn khởi sự và hoàn thành trong Chúa”. Cũng
vậy, mọi bước đi của cuộc sống chúng ta, mọi hoạt động, cả của Giáo Hội nữa cũng phải
được làm trước mặt Chúa và dưới ánh sáng của Lời Chúa... Khi lời cầu nguyện được dưỡng
nuôi bằng Lời Chúa, chúng ta có thể nhìn thực tại với đôi mắt mới, với đôi mắt của
đức tin, và Chúa là Đấng nói với tâm trí chúng ta ban ánh sáng mới cho đường đi, trong
mọi lúc và mọi hoàn cảnh. Chúng ta tin vào sức mạnh của Lời Chúa và lời cầu nguyện.
Sự kiện các Tông Đồ không chỉ chuẩn nhận việc lựa chọn Stephano và các người khác,
nhưng còn cầu nguyện rồi đặt tay trên họ ám chỉ việc trao ban nhiệm vụ cho họ, và
minh xác rằng việc phục vụ bác ái là một phục vụ tinh thần. Đức Thánh Cha quảng diễn
ý nghĩa cử chị đặt tay như sau:
Với cử chỉ đặt tay các Tông Đồ trao ban cho
bảy người này một chức thừa tác, để họ nhận được ơn thánh tương xứng. Việc nhấn mạnh
trên lời cầu nguyện ”sau khi đã cầu nguyện”, là quan trọng, bởi vì nó minh nhiên chiều
kích tinh thần của cử chỉ này. Đây không chỉ là việc đơn thuần trao ban một chức vụ
như trong một tổ chức xã hội, mà là một biến cố giáo hội, trong đó Chúa Thánh Thần
chiếm hữu bảy người được Giáo Hội tuyển chọn, bằng cách thánh hiến họ cho Chân Lý
là Chúa Giêsu Kitô. Chính Người là tác nhân thinh lặng, hiện diện trong việc đặt tay,
để các người được chọn được biến đổi bởi quyền năng của Người và được thánh hóa hầu
đương đầu với các thách đố cụ thể, các thách đố mục vụ.
Trình thuật cũng cho
chúng ta thấy sự tối thượng của lời cầu nguyện và Lời Chúa làm nảy sinh ra hoạt động
mục vụ. Đối với Các Chủ Chăn đây là hình thức phục vụ đầu tiên qúy báu đối với đoàn
chiên được giao phó cho các vị. Nếu các lá phổi của lời cầu nguyện và Lời Chúa không
dưỡng nuôi hơi thở cuộc sống thiêng liêng của chúng ta, thì chúng ta có nguy cơ chết
ngộp giữa hàng ngàn sự việc mỗi ngày: lời cầu nguyện là hơi thở của linh hồn và cuộc
sống.
Sau khi chào các tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban
Nha, NBồ Đào Nha, Ba Lan, Croat, Slovac, Hungari và Ý và cầu chúc họ có những ngày
hành hương sốt sắng và bổ ích, Đức Thánh Cha đã cất kinh Lậy Cha và ban phép lành
tòa thánh cho mọi người.