NGUYÊN VĂN SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN
ĐỨC 16 NHÂN NGÀY HÒA BÌNH THẾ GIỚI LẦN THỨ 45: 1-1-2012
Giáo dục người trẻ về công lý và hòa bình
1. Đầu năm
mới, là hồng ân của Thiên Chúa cho nhân loại, với lòng tín thác sâu đậm và quí mến,
tôi xin gửi đến tất cả mọi người lời cầu chúc đặc biệt cho thời kỳ chúng ta đang sống,
để thời kỳ này được hưởng công lý và hòa bình một cách cụ thể. Đâu là thái độ
chúng ta nhìn về năm mới? Trong Thánh Vịnh 130 chúng ta thấy một hình ảnh rất đẹp.
Tác giả Thánh Vịnh nói rằng người tín hữu mong đợi Chúa ”hơn lính canh mong đợi hừng
đông” c.6), họ mong đợi Chúa với niềm hy vọng kiên vững, vì biết rằng Chúa sẽ mang
đến ánh sáng, lòng từ bi, ơn cứu độ. Sự mong đợi ấy nảy sinh từ kinh nhiệm của dân
tuyển, họ nhìn nhận mình được Thiên Chúa dạy cách nhìn thế giới trong chân lý và không
để cho mình bị sầu muộn đè bẹp. Tôi mời gọi anh chị em hãy nhìn năm 2012 với thái
độ tin tưởng như thế. Quả thực là trong năm đang kết thúc, có cảm thức bất mãn gia
tăng vì cuộc khủng hoảng đang đè nặng trên xã hội, thế giới lao động và nền kinh tế;
căn cội trước tiên của cuộc khủng hoảng này có tính chất văn hóa và nhân loại học.
Dường như một tấm màn đen tối đang che phủ thời đại chúng ta và không cho ta thấy
rõ ánh sáng ban ngày. Nhưng trong tối tăm như thế, tâm hồn con người không ngừng
mong đợi hừng đông mà Tác giả Thánh Vịnh nói tới. Sự mong đợi ấy đặc biệt sinh động
và cụ thể nơi những người trẻ, và vì thế, tôi nghĩ đến họ, xét vì sự đóng góp mà họ
có thể và phải cống hiến cho xã hội. Bởi vậy tôi muốn trình bày Sứ điệp nhân Ngày
Hòa Bình Thế Giới lần thứ 45 trong một viễn tượng giáo dục: ”Giáo dục người trẻ về
công lý và hòa bình”, với xác tín rằng do lòng hăng say và sự theo đuổi lý tưởng,
người trẻ có thể mang lại cho thế giới một niềm hy vọng mới. Sứ điệp của tôi cũng
được gửi đến các bậc cha mẹ, các gia đình, và tất cả những thành phần giáo dục, huấn
luyện, cũng như tới các vị trách nhiệm trong các lãnh vực khác nhau của đời sống tôn
giáo, xã hội, chính trị, kinh tế, văn hóa và truyền thông. Chú ý đến giới trẻ, biết
lắng nghe và đề cao giá trị của họ, không phải chỉ là một cơ may, nhưng còn là một
nghĩa vụ đầu tiên của toàn thể xã hội, để kiến tạo một tương lai công lý và hòa bình.
Vấn đề ở đây là thông truyền cho người trẻ sự quí chuộng giá trị tích cực của cuộc
sống, khơi lên nơi họ ước muốn dành cuộc sống để phục vụ Sự Thiện. Đây là một nghĩa
vụ mà tất cả chúng ta phải đích thân dấn thân. Những lo lắng mà nhiều người trẻ
biểu lộ trong thời gian gần đây, tại các miền khác nhau trên thế giới, biểu lộ mong
ước có thể nhìn về tương lai với niềm hy vọng vững chắc. Trong lúc này đây, có nhiều
khía cạnh mà người trẻ đang lo lắng trải qua: ước muốn nhận được một sự huấn luyện
chuẩn bị họ một cách sâu sắc nhất để đương đầu với thực tại, khó khăn thành lập gia
đình và tìm được công văn việc làm ổn định, khả năng thực sự góp phần vào giới chính
trị, văn hóa, và kinh tế để xây dựng một xã hội có khuôn mặt nhân bản và liên đới
hơn. Điều quan trọng là những men ấy và động lực hướng về một lý tưởng mà chúng chứa
đựng, được mọi thành phần xã hội quan tâm đúng đắn. Giáo Hội nhìn người trẻ với niềm
hy vọng, tín nhiệm và khích lệ họ tìm kiếm chân lý, bảo vệ công ích, có những cái
nhìn cởi mở về thế giới, có có những đôi mắt có khả năng thấy được ”những sự mới mẻ”
(Is 42,9; 48,6)!
Các vị hữu trách về giáo dục 2. Giáo dục là một
cuộc phiêu lưu hứng thú và khó khăn nhất trong cuộc đời. Giáo dục - Educare - từ nguyên
ngữ latinh educere - có nghĩa là dẫn ra khỏi chính mình để đưa vào thực tại, hướng
đến sự sung mãn làm tăng trưởng con người. Tiến trình này được nuôi dưỡng nhờ cuộc
gặp gỡ giữa hai tự do: tự do của người lớn và tự do của người trẻ. Nó đòi tinh thần
trách nhiệm của môn sinh, phải cởi mở, để cho mình được dẫn đến sự hiểu biết thực
tại, và trách nhiệm của nhà giáo dục, phải sẵn sàng hiến chính bản thân mình. Để được
vậy, hơn bao giờ hết, cần có những chứng nhân chân chính, chứ không phải chỉ là những
người phổ biến các qui luật và thông tin; cần những chứng nhân biết nhìn xa hơn người
khác, vì cuộc sống của họ bao trùm những không gian rộng lớn hơn. Chứng nhân là người
sống trước tiên con đường mà họ đề nghị. Đâu là những nơi trong đó nền giáo dục
đích thực về hòa bình và công lý được chín mùi? Gia đình là tế bào nguyên thủy của
xã hội. ”Chính trong gia đình mà con cái học được các giá trị nhân bản và Kitô giáo,
để có sự sống chung xây dựng và an bình. Chính trong gia đình mà người trẻ học tình
liên đới giữa các thế hệ, sự tôn trọng các qui luật, sự tha thứ và đón nhận tha nhân”
(1). Gia đình là trường học đầu tiên trong đó người trẻ được giáo dục về công lý và
hòa bình. Chúng ta đang sống trong một thế giới trong đó gia đình, và cả sự sống
nữa, liên tục bị đe dọa, và nhiều khi bị phân hóa. Những điều kiện làm việc nhiều
khi ít có thể dung hợp với các trách nhiệm gia đình, những lo âu về tương lai, nhịp
sống ồ ạt, những cuộc di cư tìm kế sinh nhai thích hợp, hoặc để sống còn, rốt cuộc
làm cho cha mẹ khó có thể đảm bảo cho con cái một trong những thiện ích quí giá nhất:
đó là sự hiện diện của cha mẹ; hiện diện này giúp tạo nên sự chia sẻ ngày càng sâu
đậm hơn về hành trình, để có thể thông truyền kinh nghiệm và những xác tín chắc chắn
đã thủ đắc được với năm tháng, những điều này chỉ có thể truyền đạt được nhờ thời
gian sống chung với nhau. Với các bậc cha mẹ, tôi muốn nói họ đừng nản chí! Qua tấm
gương cuộc sống, họ nhắn nhủ con cái đặt hy vọng trước tiên nơi Thiên Chúa, chỉ từ
Ngài mới nảy sinh công lý và hòa bình chân chính. Tôi cũng muốn ngỏ lời với các
vị hữu trách của các tổ chức giáo dục: với tinh thần trách nhiệm cao, họ hãy quan
tâm sao cho phẩm giá mỗi người được tôn trọng và được nêu cao giá trị trong mọi hoàn
cảnh. Hãy làm sao để mỗi người trẻ có thể khám phá ơn gọi của mình, bằng cách tháp
tùng người trẻ để làm cho các năng khiếu Chúa ban được sinh hoa kết quả. Hãy cam kết
với các gia đình rằng con cái của họ có thể có được một hành trình huấn luyện không
tương phản với lương tâm và các nguyên tắc tôn giáo của cha mẹ. Ước gì mỗi môi
trường giáo dục có thể là một nơi cởi mở đối với siêu việt và tha nhân; là nơi đối
thoại, liên kết và lắng nghe, trong đó người trẻ cảm thấy được đề cao giá trị trong
các tiềm năng và sự phong phú nội tâm của họ, và học cách quí chuộng anh chị em. Ước
gì mỗi môi trường giáo dục có thể dạy cách nếm hưởng niềm vui nảy sinh từ cuộc sống,
ngày qua ngày, trong tình bác ái và từ bi đối với tha nhân, và trong sự tích cực tham
gia vào việc xây dựng một xã hội nhân bản và huynh đệ hơn. Kế đến, tôi ngỏ lời
với các vị trách nhiệm chính trị, xin họ hãy giúp đỡ một cách cụ thể cho các gia đình
và các tổ chức giáo dục thực thi quyền cũng như nghĩa vụ giáo dục. Không bao giờ được
quên nâng đỡ thích đáng cho sứ mạng làm cha làm mẹ. Các vị hữu trách chính trị hãy
làm sao để không một ai bị phủ nhận quyền được giáo dục và làm sao để các gia đình
có thể tự do chọn lựa các cơ cấu giáo dục mà họ coi là thích hợp nhất cho thiện ích
của con cái họ. Các nhà chính trị hãy dấn thân tạo điều kiện dễ dàng cho việc đoàn
tụ các gia đình bị chia cách vì nhu cầu tìm kiếm công ăn việc làm. Hãy giúp cho người
trẻ có một cái nhìn trong sáng về chính trị, như một sự phục vụ đích thực dành cho
công ích của tất cả mọi người. Ngoài ra, tôi cũng không thể không kêu gọi giới
truyền thông hãy góp phần vào việc giáo dục. Trong xã hội ngày nay, các phương tiện
truyền thông đại chúng có một vai trò đặc biệt: không những thông tin, nhưng chúng
còn huấn luyện tinh thần cho những người đón nhận, và vì thế chúng có thể đóng góp
đáng kể cho việc giáo dục người trẻ. Điều quan trọng là để ý tới mối liên hệ rất chặt
chẽ giữa giáo dục và truyền thông: thực vậy giáo dục diễn ra nhờ truyền thông, việc
thông truyền này ảnh hưởng hoặc tích cực hoặc tiêu cực trên sự huấn luyện con người.
Cả những người trẻ cũng phải có can đảm sống trước tiên điều mà họ đòi hỏi những người
chung quanh. Đó là một trách nhiệm lớn của họ: người trẻ hãy có can đảm sử dụng tự
do của mình một cách tốt đẹp và ý thức. Họ cũng là người trách nhiệm về sự giáo dục
và huấn luyện bản thân về công lý và hòa bình.
Giáo dục về chân lý và tự
do 3. Thánh Augustinô đã tự hỏi: ”Có gì mà linh hồn mong ước nồng nhiệt hơn
là chân lý? - Quid enim fortius desiderat anima quam veritatem?” (2). Khuôn mặt nhân
bản của một xã hội tùy thuộc rất nhiều nơi sự đóng góp của nền giáo dục để giữ cho
yêu cầu không thể bị đè nén ấy được sinh động. Thực vậy, giáo dục liên hệ tới sự huấn
luyện toàn diện con người, kể cả chiều kích luân lý và tinh thần của cuộc sống, hướng
tới mục đích tối hậu và thiện ích của xã hội mà họ là thành phần. Vì thế, để giáo
dục về chân lý, trước tiên cần biết con người là ai, biết bản tính của con người.
Khi chiêm ngắm thực tại chung quanh, Tác giả Thánh Vịnh suy tư: ”Khi con thấy các
tầng trời, công trình tay Chúa dựng nên, mặt trăng và các vì sao mà Chúa đã tạo thành,
thử hỏi con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?”
(Tv 8,4-5). Đây là câu hỏi cơ bản cần phải được đề ra: Con người là ai? Con người
là một hữu thể mang trong tâm hồn một niềm khao khát vô biên, một sự khao khát chân
lý - không phải thứ chân lý bán phần, nhưng là chân lý có khả năng giải thích ý nghĩa
cuộc sống - vì con người đã được tạo thành theo hình ảnh và giống Thiên Chúa. Như
thế, trong tâm tình biết ơn, nhìn nhận cuộc sống như hồng ân khôn lường sẽ giúp khám
phá chính phẩm giá sâu xa của mình và đặc tính bất khả xâm phạm của mỗi người. Vì
vậy, nền giáo dục đầu tiên là học cách nhìn nhận nơi con người hình ảnh của Đấng Tạo
Hóa, và nhờ đó, có một thái độ tôn trọng sâu xa đối với mỗi người và giúp tha nhân
có được một cuộc sống phù hợp với phẩm giá rất cao cả ấy. Không bao giờ được quên
rằng ”sự phát triển đích thực của con người liên hệ tới con người toàn diện trong
mọi chiều kích” (3), kể cả chiều kích siêu việt, và không thể hy sinh con người để
đạt tới một lợi ích nào đó, dù là kinh tế hay xã hội, cá nhân hoặc tập thể. Chỉ
trong quan hệ với Thiên Chúa, con người mới hiểu ý nghĩa tự do của mình. Và trách
vụ của giáo dục là huấn luyện về tự do đích thực. Tự do này không phải là không có
rằng buộc trong đó tự do ý chí ngự trị, tự do không phải là chủ trương coi cái tôi
là tuyệt đối. Người tưởng mình là tuyệt đối, không lệ thuộc một điều gì hoặc một ai,
và tưởng mình có thể làm tất cả những gì mình muốn, thì rốt cuộc sẽ mâu thuẫn với
sự thật về chính mình và mất cả tự do. Trái lại, con người là một hữu thể có tương
quan, sống trong quan hệ với người khác, và nhất là với Thiên Chúa. Tự do đích thực
không bao giờ có thể đạt được bằng cách xa lìa Chúa. Tự do là một giá trị quí
giá, nhưng tế nhị, nó có thể bị hiểu lầm và lạm dụng. ”Ngày nay, một chướng ngại đặc
biệt nguy hiểm cho công trình giáo dục là sự hiện diện ồ ạt, trong xã hội và trong
nền văn hóa chúng ta, trào lưu duy tương đối, không nhìn nhận điều gì là chắc chắn
chung kết, coi cái tôi của mình với những ý muốn hay thay đổi là mẫu mực tối hậu,
và dưới cái vẻ tự do nó trở thành một nhà tù đối với mỗi người, vì nó phân tách người
này với người khác, thu hẹp mỗi người vào sự khép kín trong cái tôi của mình. Trong
chân trời duy tương đối như thể, không thể có một nền giáo dục đích thực: thực vậy,
nếu không có ánh sáng của chân lý, thì mọi người, vào một lúc nào đó, sẽ phải nghi
ngờ về sự tốt lành của chính cuộc sống và của những quan hệ họp thành cuộc sống, nghi
ngờ về giá trị sự dấn thân của mình để cùng với tha nhân xây dựng một cái gì chung”
(4). Để thi hành tự do, con người phải vượt thắng chân trời duy tương đối và nhìn
nhận chân lý về chính mình và chân lý về điều thiện và điều ác. Trong thẳm sâu lương
tâm của mình, con người khám phá thấy một luật mà mình không tự ban hành, trái lại
mình phải tuân hành luật ấy và tiếng nói của luật này kêu gọi con người hãy yêu mến
và làm điều thiện, tránh điều ác, lãnh nhận trách nhiệm về điều thiện đã làm và điều
ác đã phạm (5). Vì thế, việc thực thi tự do liên hệ mật thiết với luật luân lý tự
nhiên, có tính chất phổ quát. Luật ấy biểu lộ phẩm giá của mỗi người, đặt nền tảng
cho các quyền và nghĩa vụ cơ bản của con người, và vì thế, xét cho cùng, nó đặt nền
tảng cho sự sống chung đúng đắn và an bình giữa con người với nhau. Vì thế, việc
sử dụng tự do một cách đúng đắn là điều chủ yếu trong việc thăng tiến công lý và hòa
bình, nó đòi phải có sự tôn trọng bản thân và tha nhân, dù họ có lối sống khác với
mình. Từ thái độ đó nảy sinh những yếu tố mà nếu thiếu thì hòa bình và công lý chỉ
là những từ trống rỗng: đó là sự tín nhiệm lẫn nhau, khả năng đối thoại, khả năng
tha thứ, - mà bao nhiêu lần ta muốn được, nhưng nhiều khi cũng rất khó trao ban,-
lòng bác ái đối với nhau, sự cảm thương đối với những người yếu đuối nhất, cũng như
sự sẵn sàng hy sinh.
Giáo dục về công lý 4. Trong thế giới chúng
ta, trong đó giá trị nhân vị, phẩm giá và các quyền con người, - tuy có những lời
tuyên bố chủ ý-, nhưng chúng đang bị đe dọa nghiêm trọng do xu hướng thịnh hành chỉ
theo những tiêu chuẩn lợi ích, lợi lộc và sở hữu, điều quan trọng là không được tách
rời ý niệm công lý ra khỏi những căn cội siêu việt của nó. Thực vậy, công lý không
phải chỉ là một hiệp ước đồng thuận giữa con người với nhau, bởi vì điều công chính,
tự nguyên thủy, không do luật lệ con người xác định, nhưng do căn tính sâu xa của
con người. Chính cái nhìn toàn diện về con người giúp ta không rơi vào một quan niệm
duy khế ước về công lý và nhờ đó cũng mở ra một chân trời liên đới và thương yêu (6).
Chúng ta không thể không biết rằng một số trào lưu văn hóa tân thời, được các nguyên
tắc kinh tế duy lý và cá nhân chủ nghĩa hỗ trợ, đã làm cho niệm công lý xa lạ với
các căn cội siêu việt của nó, tách nó khỏi bác ái và liên đới. ”Xã hội con người không
phải được cấu thành nhờ các quan hệ quyền lợi và nghĩa vụ mà thôi, nhưng hơn nữa và
trước tiên bằng những quan hệ nhưng không, từ bi và hiệp thông. Lòng bác ái luôn biểu
lộ tình yêu của Thiên Chúa cả trong những quan hệ giữa con người với nhau, bác ái
mang lại một giá trị hướng thần và cứu độ cho mọi sự dấn thân xây dựng công lý trên
thế giới” (7). ”Phúc cho những người đói khát công lý vì họ sẽ được no đầy” (Mt
5,6). Họ sẽ được no đầy vì họ đói khát quan hệ ngay chính với Thiên Chúa, với bản
thân, với anh chị em và với toàn thể thụ tạo.
Giáo dục về hòa bình
5. ”Hòa bình không phải chỉ là vắng bóng chiến tranh và không thể thu hẹp vào việc
giữ thế quân bình giữa các lực lượng đối nghịch. Không thể đạt được hòa bình trên
trái đất nếu không bảo vệ thiện ích của con người, tự do đả thông giữa con người với
nhau, tôn trọng phẩm giá con người và cácc dân tộc, chuyên cần thực thi tình huynh
đệ” (8). Hòa bình là thành quả của công lý và kết quả của bác ái. Hòa bình trước tiên
là hồng ân của Thiên Chúa. Các tín hữu Kitô chúng ta tin rằng Chúa Kitô là hòa bình
đích thực của chúng ta: nơi Ngài, trên thập giá, Thiên Chúa đã hòa giải thế gian với
Người và đã phá hủy những hàng rào chia cách chúng ta với nhau (Xc Ep 2,14-18); nơi
Ngài có một gia đình duy nhất được hòa giải trong tình yêu. Nhưng hòa bình không
phải chỉ là một hồng ân được nhận lãnh, mà còn là một công trình cần được xây dựng.
Để thực sự là những người kiến tạo hòa bình, chúng ta phải tự giáo dục về cảm thông;
tình liên đới, sự cộng tác, tình huynh đệ, chúng ta phải tích cực giữa lòng cộng đoàn
và cảnh giác trong việc thức tỉnh lương tâm con người về những vấn đề quốc gia và
quốc tế, và tầm quan trọng của việc tìm kiếm những phương thức thích hợp để tái phân
phối tài nguyên, đẩy mạnh sự tăng trưởng, cộng tác vào việc phát triển và giải quyết
các xung đột. ”Phúc cho những người xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa”, Chúa Giêsu đã nói như thế trong bài giảng trên núi (Mt 5,9). Hòa bình cho
tất cả mọi người nảy sinh từ công lý của mỗi người và không ai có thể trốn tránh nghĩa
vụ thiết yếu thăng tiến công lý, theo thẩm quyền và trách nhiệm riêng của mình. Tôi
đặc biệt mời gọi người trẻ, vốn luôn hướng về các lý tưởng, hãy kiên nhẫn và kiên
trì tìm kiếm công lý và hòa bình, vun trồng sự yêu thích những gì là công chính và
chân thực, cả khi điều này đòi phải hy vọng và đi ngược dòng.
Hướng
mắt lên nhìn Thiên Chúa 6. Đứng trước thách đố khó khăn trong hành trình công
lý và hòa bình, chúng ta có thể bị cám dỗ tự hỏi như Tác giả Thánh Vịnh: ”Tôi ngước
mắt nhìn lên rặng núi: ơn phù trợ tôi đến từ nơi nao?” (Tv 121,1). Tôi muốn mạnh
mẽ nói với tất cả mọi người, đặc biệt là người trẻ, rằng: ”không phải các ý thức hệ
cứu vãn thế giới, nhưng là nhờ qui hướng về Thiên Chúa hằng sống, Ngài là Đấng tạo
dựng nên chúng ta, là người bảo đảm tự do của chúng ta, người bảo đảm những gì thực
là tốt và chân thực.. Qui hướng về Thiên Chúa không chút dè dặt, Ngài là mẫu mực nhữnggì
là công chính và đồng thời là tình yêu vĩnh cửu. Và điều gì có thể cứu vớt chúng ta
nếu không phải là tình yêu?” (9). Tình yêu vui mừng về chân lý, là sức mạnh giúp chúng
ta có khả năng dấn thân cho chân lý, cho công lý, cho hòa bình, vì tình yêu tha thứ
tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (Xc 1 Cr 13,1-13).
Hỡi những người trẻ thân mến, các bạn là hồng ân quí giá cho xã hội. Các bạn đừng
để mình nản chí thất vọng trong những khó khăn và đừng chiều theo những giải pháp
giả dối, chúng thường xuất hiện như con đường dễ dàng nhất để khắc phục các vấn đề.
Các bạn đừng sợ dấn thân, đương đầu với vất vả và hy sinh, con những con đường đòi
trung thành và kiên trì, khiêm tốn và tận tụy. Các bạn hãy tín thác sống tuổi trẻ
của các bạn và những ước muốn sâu xa mà các bạn cảm thấy về hạnh phúc, về chân lý,
về vẻ đẹp, về tình yêu chân thực! Hãy sống nồng nhiệt giai đoạn này của cuộc sống,
giai đoạn rất phong phú và đầy phấn khởi. Hãy ý thức chính các bạn là tấm gương
khích lệ cho người lớn, và hễ các bạn càng cố gắng vượt thắng những bất công và tham
ô, càng mong ước một tương lai tốt đẹp hơn và dấn thân xây dựng tương lai ấy, thì
các bạn càng là những tấm gương cho người lớn. Hãy ý thức về những tiềm năng của các
bạn và đừng bao giờ com cụm vào mình, trái lại hãy biết làm việc cho một tương lai
rạng ngời hơn cho tất cả mọi người. Các bạn không bao giờ lẻ loi. Giáo Hội tín nhiệm
các bạn, theo dõi, khích lệ các bạn và mong muốn cống hiến cho các bạn điều quí giá
nhất: đó là khả năng hướng mắt lên nhìn Thiên Chúa, gặp gỡ Chúa Giêsu Kitô, Đấng là
công lý và hòa bình. Tôi ngỏ lời với tất cả anh chị em, là những người nam nữ
quan tâm đến chính nghĩa hòa bình! Hòa bình không phải là một thiện ích đã đạt được,
nhưng là một mục tiêu mà tất cả và mỗi người chúng ta phải khao khát. Chúng ta hãy
nhìn về tương lai với niềm hy vọng mạnh mẽ hơn, chúng ta khích lệ nhau trong hành
trình, làm việc để mang lại cho thế giới một khuôn mặt nhân bản và huynh đệ hơn, và
chúng ta hãy cảm thấy mình được liên kết với nhau trong trách nhiệm đối với các thế
hệ trẻ hiện nay và tương lai, đặc biệt qua việc giáo dục họ trở thành những người
yêu chuộng hòa bình và xây dựng hòa bình. Chính trên căn bản ý thức ấy, tôi gửi đến
anh chị em những suy tư này và tôi gửi đến anh chị em lời kêu gọi: chúng ta cùng liên
kết sức mạnh tinh thần, luân lý và vật chất của chúng ta để ”giáo dục người trẻ về
công lý và hòa bình”.Vatican ngày 8 tháng 12 năm 2011 Biển Đức 16, Giáo Hoàng
(G. Trần Đức Anh OP chuyển ngữ)
---------- CHÚ THÍCH:
1. Biển Đức 16, Diễn văn trước Chính quyền miền Lazio, Thành phố
và Tỉnh Roma (14-1-2011): Osservatore Romano, 15-1-2011, tr.7 2. Chú giải
Tin Mừng thánh Gioan, 26,5 3. Biển Đức 16, Thông điệp Caritas in
veritate (29-6-2009), 11: AAS 101 (2009), 648; Xc Paolo VI, Thông điệp Populorum
progressio (26-3-1967), 14: AAS 59(1967), 264. 4. Biển Đức 16, Diễn
văn khai mạc Hội nghị giáo phận tại Vương cung Thánh đường thánh
Gioan ở Laterano (6-6-2005): AAS 97 (2005), 816. 5. Xc Gaudium et Spes,
16 6. Xc Biển Đức 16, Diễn văn tại Quốc hội liên bang
Đức (Berlin 22-9-2011): Osservatore Romano, 24-9-2011, tr.6-7. 7. Biển
Đức 16, Thông điệp Caritas in veritate (29-6-2009), 6: AAS 101 (2009),
644-645. 8. Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, 2304 9. Biển Đức
16, Canh thức với giới trẻ (Koeln, 20-8-2005): AAS 97 (2005), 885-886.