Phỏng vấn bà Anna Maria Gentili, giáo sư sử học và các cơ cấu tại các quốc
gia Phi châu và Á châu
Ngày 9-7-2011 Nam Sudan đã tổ chức lễ tuyên bố độc
lập và lập nước trong bầu khí lễ hội tươi vui. Tham dự các lễ nghi cũng có phái đoàn
đại diện của Tòa Thánh. Ngày 11-7-2011 Liên Hiệp Quốc đã chính thức thừa nhận Nam
Sudan như quốc gia thành viên thứ 193.
Hiện diện trong buổi lễ nhìn nhận tại
trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, có cả phái đoàn Tòa Thánh do Đức Tổng Giám
Mục Francis Chullikat, quan sát viên thường trực cạnh Liên Hiệp Quốc, cầm đầu. Nhân
dịp này, Đức Tổng Giám Mục Chullikat đã chuyển tới quốc gia thành viên mới của Liên
Hiệp Quốc những lời cầu chúc của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, cầu xin Thiên Chúa đổ
nhiều ơn lành trên dân nước và chính quyền Nam Sudan và giúp Nam Sudan tiến bước trên
con đường hòa bình, tự do và phát triển. Đề cập đến những vấn đề hiện nay của đất
nước tân lập này, Đức Tổng Giám Mục Chullikat nhận định rằng vấn đề cấp thiết nhất
hiện nay là giải quyết tình trạng của hơn 300.000 người tản cư nội địa. Hàng giáo
phẩm của giáo hội địa phương cũng như các tổ chức bác ái và dòng tu đang nỗ lực trợ
giúp người di tản. Ngoài ra còn có nhiều vấn đề khác như bảo đảm an ninh, mạng sống
và tài sản cho người dân, gìn giữ quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng, canh tân
tình trạng y tế và giáo dục trong nước, nhất là bảo vệ sức khỏe cho các bệnh nhân
HIV và nạn nhân của các dịch tễ khác, đồng thời đề ra chương trình phát triển và tái
thiết đất nước. Đức Tổng Giám Mục Chullikat nhấn mạnh rằng: Giáo hội nêu bật tầm quan
trọng của sự tha thứ và hòa giải, là những điều kiện thiết yếu của một nền hòa bình
vững bền và lâu dài, không những đối với Nam Sudan, nhưng còn cho toàn vùng này nữa.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn bà Anna Maria Gentili,
giáo sư môn sử học và các cơ cấu tại các quốc gia Phi châu và Á châu, về các nguy
cơ và bấp bệnh mà dân nước Nam Sudan phải đương đầu.
Hỏi: Thưa giáo
sư Gentili, nền độc lập của Nam Sudan đã đến
sau 6 năm thương thuyết kết thúc với việc ký thỏa hiệp ngày 9-1-2005 giữa tổng
thống Omar Hassam el Bashir và ông John Garang, lãnh tụ Quân đội nhân
dân giải phóng Sudan (SPLA). Trong thời gian này lý tưởng tách rời
đã chín mùi tại miền Nam Sudan. Nhưng nó đã không phải là mục
tiêu của ông John Garang, qua đời ít lâu sau đó. Xem ra ông John
Garang cũng đã không bắt đầu chuẩn bị các điều
kiện cho một sự phát triển xã hội cũng như viễn tượng
của chế độ đa đảng chính trị. Giáo sư có đồng
ý không?
Đáp: Vâng, cần phải nhớ rằng cuộc chiến đấu của miền Nam
Sudan cho sự tự quyết chứ không phải cho sự tách rời, là một cuộc chiến đấu kéo dài
nhiều chục năm trời. Và phần lớn dân chúng được đại diện bởi phong trào của ông Garang,
muốn tạo ra một nước Sudan dân chủ, đời và hiệp nhất. Ngoài ra, khuynh hướng quốc
gia hiện nay đã được biết tới ngay hồi thập niên 1920, do các sĩ quan của quân đội
nam Sudan chủ trương chống lại đường lối chính trị tách rời miền bắc và miền nam Sudan,
do thực dân Anh chủ trương. Đại tá Garang đã thương thuyết thỏa hiệp chọn lựa sự thống
nhất trong một hệ thống liên bang. Nhưng điều này dự kiến một cuộc cải cách nền tảng
hệ thống chính trị Sudan. Đó đã không phải chỉ là niềm hy vọng của ông Garang, mà
là của đại đa số dân chúng Sudan. Khi ông Garang đến Khartum, sau khi ký thỏa hiệp
hòa bình, không phải chỉ có người gốc di cư miền nam Sudan vui mừng tiếp đón ông,
mà cả người dân miền bắc và của các vùng khác muốn tự trị nữa. Việc tách rời hai miền
cũng là hậu qủa của các cải cách đã không được thực hiện tại miền bắc cũng như tại
miền nam Sudan.
Hỏi: Thưa giáo sư, sau vụ Eritrea tách rời
khỏi Etiopia, sự kiện nảy sinh ra nước Nam Sudan là một vi phạm nguyên
tắc bất khả xâm phạm biên giới do tổ chức thống nhất phi châu và Liên hiệp
Phi châu đề ra. Nó có thể trở thành tiền lệ cho các tình trạng muốn tách rời
khác như Somaliland hay Ogaden trong vùng Sừng Phi châu, hoặc các vùng khác
tại Sudan hay không?
Đáp: Đối với vùng Somaliland thì có thể xảy
ra, vì dân chúng vùng này sẽ củng cố thỉnh cầu cộng đồng quốc tế thừa nhận sự độc
lập của họ. Còn đối với các vùng khác tại Sudan từ lâu vẫn có chiến tranh như Darfur,
Abyei miền nam Kordofan, và sông Nil xanh, tôi không thấy có khả thể nào. Vả lại,
trong tất cả các tình trạng này, chỉ có vài nhóm thiểu số đã đe dọa tách rời với các
mục đích riêng. Trái lại, các nhóm phiến quân khác nhau đã chiến đấu chống lại việc
thiếu cải cách của chính quyền Sudan, nhất là sau khi đảng của ông Bashir lên cầm
quyền. Đáp lại tổng thống Bashir đã đưa ra một đường lối chính trị gia tăng chia rẽ
nhằm duy trì quyền kiểm soát bằng cách tài trợ cho nạn gian tham hối lộ kinh tế và
chính trị.
Hỏi: Theo một số các quan sát viên, Nam Sudan có thể trở thành
quốc gia thứ 6 của Vùng Đông Phi châu bao gồm các nước
Kenya, Rwanda, Tanzania và Uganda. Điều này có thể gia tăng sự
chia rẽ giữa Phi châu da trắng và Phi châu da đen miền nam sa mac Sahara
và gây ra các hậu qủa phức tạp liên quan tới các vùng miền, chẳng hạn như việc
chia chác nước sông Nil giữa các quốc gia trong vùng hay không? Hay là Nam
Sudan sẽ duy trì nhiều tương quan với Khartum, với việc khai thác dầu
hòa và các ống dẫn dầu thưa giáo sư?
Đáp: Chắc chắn là sẽ
có việc củng cố các tương quan giữa Nam Sudan và Bắc Sudan cũng như với các quốc gia
trong vùng. Tuy nhiên, đối với tân quốc gia mới thành hình ưu tiên vẫn là tương quan
với Bắc Sudan, vì sự hội nhập giữa người dân miền Bắc và miền Nam Sudan lớn hơn điều
người ta tưởng nghĩ rất nhiều. Chỉ cần nghĩ tới sự hiện diện của các người di cư tị
nạn ở cả hai miền Bắc và Nam Sudan thì đủ hiểu. Liên hệ chặt chẽ này sẽ có ảnh hưởng
trên bình diện liên minh chính trị, nếu không thì bởi vì sự thay đổi của miền Nam
Sudan cũng tùy thuộc nơi sự thay đổi tương tự của chính quyền Khartum. Đây là điều
đáng cầu mong, tuy vẫn chưa có. Thế rồi cần phải nhớ rằng vấn đề biên giới rất tế
nhị, không chỉ đối với việc kiểm soát các nguồn dầu hỏa và các ống dẫn dầu, mà cũng
liên quan tới sự hiện diện lâu đời của các dân tộc du mục chuyên sống về nghề chăn
nuôi và họ có các liên hệ phức tạp với các dân tộc định cư nữa.
Hỏi:
Xin giáo sư nói về các miền có nhiều nguy cơ bất ổn, như
các vụ xung đột vũ trang xảy ra trong các thời gian qua,
đặc biệt là từ tháng 5 vừa qua, khi quân đội Khartum đánh
chiếm vùng Abyei, là nơi có các mỏ dầu hỏa.
Đáp:
Vâng, đã có các vi phạm có hệ thống, cả trên bình diện chủng tộc, cũng như các
đe dọa vá các vụ tấn công lực lượng bảo hòa của Liên Hiệp Quốc. Người ta lại còn đi
đến chỗ gài mìn trên các con đường đã được gỡ khỏi các mìn chôn trong thời chiến tranh
giữa hai miền Nam Bắc Sudan. Điều này chứng minh cho thấy vấn đề chính phải giải quyết
là vấn đề tương quan với chính quyền Khartum. Cả khi không thể chối bỏ sự hiện diện
của các vấn đề khác như việc chia nguồn nước ngọt của sông Nil. Nổi bật hơn nữa là
vấn đề các quyền công dân. Chắc chắn là phải tránh lập lại đều đã xảy ra trong thời
Eritrea tuyên bố độc lập khỏi Etiopia, khiến xảy ra cảnh đi đầy của hàng trăm ngàn
người Eritrea sinh ra tại Etiopia.
Hỏi: Ngoài các vấn đề
tương quan với chính quyền Khartum, xem ra chính quyền Nam Sudan cũng gặp
kho khăn trong nội bộ của mình, có đúng thế không thưa
giáo sư?
Đáp: Vâng, đúng thế. Đó là các vấn đề giải giáp các lực
lượng dân quân; chỉ nội trong bang Unity đã có cả chục nhóm khac nhau, và các nhóm
này lại được chính quyền Khartum yểm trợ. Dĩ nhiên, các lực lượng dân quân này có
các chương trình hành động riêng, nhưng sẽ là lầm lẫn lớn, nếu nghĩ tới việc giải
quyết vấn đề mà không có một thỏa hiệp với chính quyền Khartum.
Hỏi:
Thưa giáo sư Gentili, liên quan tới các lập trường triệt
để tổng thống El Bashir đã nói là muốn áp đặt luật
Sharia của Hồi giáo trên toàn nước Sudan. Theo giáo sư đâu là
các nguy cơ đối với các nhóm tôn giáo thiểu số?
Đáp: Đây
là một đe dọa đè nặng trên người dân Sudan. Có người cho rằng tổng thống El Bashir
đã thực sự đánh đổi nền độc lập của Nam Sudan với khả thể áp đặt trên phần còn lại
của Sudan một Hiến pháp hồi giáo mới thay cho Hiến Pháp hiện hành vẫn để cho các chủng
tộc và các nhóm tôn giáo khác nhau được tự tự trị. Hiện nay tại Khartum có người muốn
áp đặt luật Sharia, có người không muốn. Trong số những người chủ trương áp đặt luật
Sharia có tổng thống El Bashir, nhưng cả trong trường hợp này nữa ông cũng đang theo
mô thức thông thường là đe dọa trước rồi sau đó lại thu xếp để đạt được các thế đứng
mạnh. Dầu sao đi nữa thì đây cũng là một vấn đề nghiêm trọng tại nhiều vùng Sudan:
bên cạnh đa số theo hồi giáo muốn áp đặt luật Sharia như luật lệ quốc gia, còn có
các các nhóm thiểu số theo Kitô giáo có nguy cơ bị chính quyền chà đạp.
Hỏi: Trở lại với tân quốc gia Nam Sudan, người ta có cảm tưởng
rằng chính quyền Juba vẫn theo đường lối chính trị phổ thông tại nhiều
vùng khác ở Phi châu, và xem ra phù hợp với một loại khuynh hướng tân
thực dân, chẳng hạn nhượng các vùng đất có thể trồng trọt
được cho người nước ngoài, có đúng thế
không thưa giáo sư?
Đáp: Sau thời gian được độc lập, đã có rất
nhiều hình thức tân thực dân khác nhau. Điều qúy vị nêu trên đây chỉ là một trong
biết bao nhiêu hình thức tân thực dân. Mọi người đều tập trung chú ý vào dầu lừa,
và có ít người duyệt xét sâu xa điều gì xảy ra liên quan tới các tài nguyên trong
thời toàn cầu hóa. Người ta đã tạo ra cả một khả năng phân phối quyền bính cho các
khách hàng qua hệ thống tài trợ quốc tế, tại Sudan, nhất là qua hệ thống tài chánh
hồi. Tại miền Nam Sudan hiện đang xảy ra tình trạng tương tự: có những vùng đất rộng
được nhường cho các hãng xưởng nước ngoài khai thác, đa số là của Hoa Kỳ, với danh
nghĩa là các tổ hợp địa phương ít trong sáng. Đây là một đường lối chính trị vô luân,
ẩn nấp dưới lớp áo phát triển, nhưng ăn cướp các tài nguyên của nông dân, và biến
họ thành giai cấp bần cố nông không quyền lợi. Đây là một trong các lý do khiến cho
số người di cư gia tăng. Trong lãnh vực này cộng đồng quốc tế mang rất nhiều trách
nhiệm.