Trong cuốn sách ”Arrivederci in Paradiso - Hẹn Gặp Lại Trên Thiên Đàng”
ông Arturo Mari gợi lại nhiều kỷ niệm về Đức Tân Chân Phúc Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II (1978-2005). Xin trích dịch những lần gặp gỡ đáng ghi nhớ. (Ông Arturo Mari
là cựu nhiếp ảnh gia tờ Quan Sát Viên Roma).
Câu chuyện ghi ấn tượng mạnh
nhất mà tôi được đặc ân chứng kiến xảy ra vào một ngày đầu năm, Mùng 1 tháng Giêng,
nhưng tôi không nhớ rõ năm nào.
Hôm ấy tôi trở về nhà lúc 3 giờ rưỡi chiều.
Vừa ngồi vào bàn ăn thì chuông điện thoại reo. Hiền thê tôi cản: - Em van anh,
xin đừng trả lời: vì hôm nay là ngày lễ!
Mặc dầu vợ ngăn, tôi vẫn trả lời.
Bên kia đầu dây báo cho tôi biết vị bí thư của Đức Giáo Hoàng tìm kiếm khẩn cấp Arturo.
Rồi người ta chuyển cho tôi nói chuyện với Đức Tổng Giám Mục Stanislaw Dziwisz. Ngài
bảo tôi đến ngay căn hộ của Đức Thánh Cha.
Tôi khoác áo vội vàng đi đến Dinh
Tông Tòa rồi vào nhà nguyện của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Nơi đây tôi trông thấy
diễn ra quang cảnh khác thường. Đức Thánh Cha đang quì cầu nguyện và bên cạnh ngài
có một thanh niên trạc 28 tuổi, ngồi trên ghế lăn. Chàng thanh niên trông thật gầy
gò ốm yếu, chỉ còn da bọc xương. Có lẽ cân nặng khoảng 30 kílô. Nhưng đôi mắt chàng
mở thật lớn. Tôi hỏi thăm thì được biết chàng thanh niên đến từ một làng quê ở gần
thành phố Brescia, miền Bắc nước Ý. Gia đình chàng nghèo thật nghèo. Dân làng đã chung
nhau góp tiền mua cho gia đình vé máy bay khứ hồi để đưa chàng đi Roma, bởi vì, mộng
ước của chàng là được gặp Đức Thánh Cha trước khi chết.
Khi đến đền thờ thánh
Phêrô cả gia đình chàng vào cửa đồng và xin gặp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Lính
gác Thụy Sỹ từ chối vì gia đình đã không hề xin hẹn trước và vì lý do an ninh cũng
như vì các thủ tục rườm rà khác, chuyện gặp Đức Thánh Cha coi như không thể diễn ra!
Sau một hồi trao qua đổi lại, các lính canh Thụy Sỹ hiểu rằng đây là một trường hợp
đặc biệt của một thời điểm tế nhị .. Họ liên lạc với vị bí thư Đức Thánh Cha và Đức
Cha Stanislao trả lời ngay: ”Hãy mang chàng thanh niên lên căn hộ Đức Thánh Cha”.
Có tất cả 5 người tháp tùng chàng thanh niên. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đích thân
tiếp đón và đưa tất cả vào nhà nguyện. Và khi tôi đến thì mọi người đang cầu nguyện.
Đây là quang cảnh vô cùng xúc động. Đức Thánh Cha còn ở lại nhà nguyện trong vòng
hai mươi phút nữa, tay ngài luôn nắm chặt tay chàng thanh niên. Rồi Đức Thánh Cha
đứng lên, ôm hôn chàng và chúc lành cho chàng. Đức Thánh Cha mở áo choàng trắng, cởi
sợi dây chuyền của ngài và đặt vào cổ chàng thanh niên. Rồi Đức Thánh Cha lại vuốt
ve chàng và ôm hôn chàng lần nữa. Vào lúc từ biệt, chàng thanh niên cầm chặt tay Đức
Thánh Cha và nói: - Thưa Đức Thánh Cha, con
xin cám ơn! Đây là ngày đẹp nhất đời con.
Con chỉ biết nói cám ơn. Xin hẹn gặp lại
Đức Thánh Cha trên Thiên Đàng!
Nét mặt
chàng không lộ vẻ tuyệt vọng nhưng tươi cười, như thể chàng ra đi, đến một cuộc gặp
gỡ khác, còn tốt đẹp hơn nhiều. Rồi các Nữ Tu dọn cho cả gia đình chàng thức ăn mang
theo và mọi người ra về. Hai ngày sau chàng thanh niên từ trần.
Có lẽ bạn
ngạc nhiên tự hỏi: Nào có gì lạ lùng đáng nói vì chàng thanh niên đâu có được lành
bệnh? Đối với tôi thì đúng là một phép lạ của an bình và lòng đạo đức. Vào chính lúc
ấy, chàng thanh niên cảm thấy được tự do. Chàng can đảm ra đi đối diện với cái chết
cách trang trọng. Chàng thật can đảm bởi vì, với số tuổi 28 không mấy dễ dàng chấp
nhận cuộc đời ngắn ngủi như thế! Câu chuyện tôi vừa kể như một sự kiện chói
sáng minh chứng Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ tha nhân.
Kể cả việc giúp một người ra đi gặp gỡ THIÊN CHÚA trong thanh thản và trong an bình.
Nó cũng biểu lộ bầu khí cầu nguyện chung, một đặc tính nổi bật trong cuộc đời Đức
Thánh Cha. Hễ có ai xin ngài giúp đỡ hoặc quan tâm săn sóc thì ngài trả lời ngay:
Chúng ta cùng cầu nguyện.
Tôi nhớ có rất nhiều trường hợp người ta nói đến
việc khỏi bệnh nhờ công trình của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Chẳng hạn câu chuyện
một phụ nữ người Anh bị bệnh ung thư ở giai đoạn cuối đời. Bà xin được mang Roma đến
gặp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước khi chết.
Thật vậy, người phụ nữ không
còn sống được bao lâu. Một máy bay của Quân Lực Anh đưa bà đến phi trường Ciampino
ở thủ đô Roma rồi được xe cứu thương chở thẳng đến buổi tiếp kiến chung của Đức Thánh
Cha. Ngài được báo trước nên khi bước vào Đại Thính Đường Phaolô VI, sau khi chào
thăm quan khách hiện diện, Đức Thánh Cha bảo đưa ngài đến gặp người phụ nữ Anh. Tôi
nhớ rõ Đức Thánh Cha chỉ nói vỏn vẹn câu bằng tiếng Anh rằng: ”Chúng ta cùng cầu nguyện”.
Rồi ngài đứng im cầu nguyện. Sau đó Đức Thánh Cha vuốt ve bà rồi chúc lành cho bà.
Rõ ràng bà đang ở giai đoạn cuối đời. Tôi thầm nghĩ chắc bà không sống sót cho tới
phi trường! Vậy mà bà vẫn sống được và về tới thủ đô Luân-Đôn bằng an. Ngày hôm sau,
bà đứng lên, đi lại và ăn uống bình thường, như không hề có chuyện gì xảy ra. Sau
đó bà thành lập một trung tâm chống ung thư tại Luân-Đôn.
Tôi xin trưng dẫn
một trường hợp khác xảy ra ngay trong gia đình tôi. Đây là trường hợp tôi biết rõ
vì tôi theo sát từ đầu đến cuối.
Hiền thê tôi tên Corina. Nàng đến
từ nước Ecuador. Nàng có người em gái đang sống tại Ecuador. Nhưng trước đó
có một thời gian, em gái nàng sống tại thủ đô Roma vì chồng em gái phục vụ tại tòa
đại sứ Ecuador .. Gia đình em gái - sống đạo chân thành sốt sắng - thường xuyên tham
dự các buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Sau khi người chồng
mãn hạn phục vụ nơi tòa đại sứ, cả gia đình trở về Ecuador sinh sống. Nhưng chỉ vỏn
vẹn ba tháng sau, chúng tôi nhận tin em gái - tên Mecita - lâm trọng bệnh.
Người ta khám phá ra nàng bị ung thư cấp tính. Vợ chồng tôi tìm cách giúp đỡ em gái.
Tôi bảo gia đình Mecita gởi cho tôi hồ sơ các cuộc khám nghiệm. Tôi đưa hồ sơ cho
các bác sĩ tôi quen biết ở Roma và nhờ nghiên cứu, xem có thể giúp được gì không.
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, các bác sĩ nói với tôi: “Rất tiếc, không còn phương thế
nào để chữa trị!”
Thật thế, toàn cơ thể Mecita bị chứng ung thư hủy hoại đến
độ, tủy xương có màu giống như màu cà-phê cháy, gần như chuyển sang màu đen. Vị bác
sĩ nhấn mạnh thêm: ”Theo kinh nghiệm, bệnh nhân chỉ có thể sống sót từ 15 đến 30 ngày!”
Nghe vậy, tôi gợi ý cho hiền thê lấy máy bay về Ecuador chăm sóc em gái trong những
ngày cuối đời em, cùng lúc ở cạnh toàn gia đình em gái trong giai đoạn thử thách đau
thương. Vợ tôi đồng ý và quyết định lên đường ngay. Nhưng trước khi đi, nàng hỏi tôi
xem có thể nào xin được một vật dụng gì của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II để mang
về cho Mecita không. Tôi liền điện thoại cho vị phó bí thư là Cha Mietek và trình
bày ước nguyện của hiền thê. Ngay sau đó, tôi nhận được một chiếc khăn tay và cỗ tràng
hạt Mân Côi mà Đức Thánh Cha luôn bỏ trong túi. Tôi nói với Corina: - Em
hãy mang theo, đây là quà của Đức
Thánh Cha. Em hãy đặt chiếc khăn tay lên
ngực Mecita và bảo em lần hạt Mân Côi với tràng chuỗi của
Đức Thánh Cha!
Hiền thê tôi lên đường về Ecuador và
thi hành ngay những điều tôi đề nghị với nàng. Sau đó, khi khám nghiệm trở lại thì
các bác sĩ nhận thấy bệnh tình thuyên giảm. Tủy xương có màu sắc bình thường. Em Mecita
phục hồi sức khoẻ có thể đi đứng cho đến ngày hôm nay, khi tôi kể lại câu chuyện này,
nghĩa là đã 9 tháng trôi qua.
Đây là sự kiện mà chính tôi chứng kiến. Tôi
không thêm thắt gì khác. Tôi không tuyên bố đây là phép lạ, vì đó là chuyện ngoài
phạm vi của tôi. Tôi chỉ làm công việc kể lại thôi. Tôi chỉ có thể nói lên ý nghĩ
riêng tư: - Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đúng
là vị thánh sống nơi trần
gian, trên trái đất!
Về cuộc gặp gỡ giữa Đức cố Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II và cố tổng thống Alessandro Pertini (1896-1990), ông
Arturo Mari kể lại như sau.
Ông Sandro Pertini làm tổng thống Ý từ năm 1978
đến 1985. Vào chuyến ông viếng thăm chính thức đầu tiên tại Vatican, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II trang trọng tiếp rước ông. Ngài nhìn thẳng vào mắt tổng thống với
cái nhìn cố hữu thăm-thẳm như muốn xuyên thấu thể xác và tâm hồn của người đối diện.
Một cái nhìn như muốn mời gọi hoán cải. Và đây là điều đã xảy ra với tổng thống Pertini.
Chỉ một sớm một chiều ông thay đổi hoàn toàn. Và từ sau cuộc gặp gỡ đáng ghi nhớ ấy,
tổng thống Pertini liên lạc qua điện thoại hàng tuần với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II. Và cũng từ nó, mỗi khi nói về Đức Thánh Cha, ông Pertini âu yếm dùng danh xưng
”bạn thân”!
Một ngày, Cha Stanislao nói với tôi: “Chuẩn bị mọi sự để ra bãi
đậu trực thăng”. Sau khi sẵn sàng, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cùng lên trực thăng
với chúng tôi. Trực thăng tiến về Castelporziano nơi có tòa nhà chính thức của tổng
thống. Khi Đức Thánh Cha bước xuống trực thăng, tổng thống Pertini đích thân tiếp
đón.
Cả hai vị đưa nhau ra xa và cùng nhau hàn huyên trò chuyện, lâu thật
lâu .. Khi cuộc nói chuyện kết thúc, tổng thống Pertini đưa Đức Thánh Cha trở lại
trực thăng. Lúc này đây tôi chứng kiến một cảnh tượng vô cùng hy hữu. Tổng thống Alessandro
Pertini tỏ ra thật xúc động. Cho đến một lúc chúng tôi nghe rõ ràng tiếng tổng thống
nói: - Thưa Đức Thánh Cha, ngay lúc này đây,
có người nào đó đang khóc trên Thiên Đàng. Đó là Mẹ
tôi. Mẹ tôi trông thấy đứa con trai vô thần
đang đứng cạnh người bạn vĩ
đại là Đức Giáo Hoàng!
Nói
xong câu này, tổng thống Pertini quỳ sụp xuống và bật lên khóc nức nở .. Thật là chuyện
khó tin nhưng có thật!
... Lạy Đức MARIA Chí Thánh, con xin
dâng lên Mẹ lời cầu, với trọn lòng tín cẩn. Mẹ chẳng từ bỏ ai, nhưng hằng
tha thiết đến phần rỗi của mọi người. THIÊN CHÚA không
hề từ chối điều gì với Mẹ khi Mẹ cầu xin cùng Ngài. Xin Mẹ hãy ôm con
vào vòng tay che chở vạn năng của Mẹ. Nếu Mẹ dủ lòng thương xót
nhậm lời con khiêm tốn cầu xin, thì toàn thể hỏa ngục cũng không thể nào làm
hại được con. Một cách nào đó, Mẹ là Bà Chủ của vận mệnh
con. Vận mệnh con nằm trong đôi bàn tay Mẹ! Nếu Mẹ bỏ rơi con,
thì con sẽ bị hư mất, không nguồn cứu giúp! Thế nhưng,
Mẹ là Người Mẹ quá tốt lành, không thể bỏ rơi những
ai đặt trọn niềm hy vọng nơi Mẹ! Xin Mẹ cầu bầu cùng
THIÊN CHÚA Ba Ngôi cho con và con tin chắc là mình sẽ được cứu rỗi!
Ôi ước gì con có quyền làm cho mọi con dân trên mặt đất này nhận
biết Mẹ! Ước gì con có thể loan báo khắp nơi sự cao cả,
lòng nhân hậu và quyền năng của Mẹ! Điều mà con không
thể làm được, con nguyện mong cho các thần trí thiên quốc làm
thay. Và ước chi chính các tên quỷ bị bó buộc phải xưng tụng
rằng: ”Mẹ là kỳ công của Bàn Tay THIÊN CHÚA, Mẹ có quyền lực THIÊN CHÚA trong tay,
Mẹ thật khủng khiếp đối với ma quỷ và mọi sự đều phục
tùng Mẹ! Mẹ là loài thọ tạo vô song! Mẹ là phụ nữ duy nhất, vừa là Trinh Nữ vừa là
Mẹ. Mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Thế. Cùng với Thánh Cả GIUSE,
Mẹ có chỗ đứng riêng”. Như thế, Mẹ cao trọng
hơn mọi Thiên Thần và các thánh: Mẹ thật là Chí Thánh, là thần thiêng! Con
hy vọng nơi Mẹ và con tin chắc chắn vững vàng rằng, kể cả mọi quyền
lực hỏa ngục, cũng không thể nào chiến thắng được con! Ước
gì được như vậy. Tất cả các Thiên Thần và các thánh
đồng thanh chúc tụng Mẹ đến muôn đời! Amen!
Ước gì được như vậy!
(Arturo Mari,
”Arrivederci in Paradiso”, Colloquio di Jaroslaw Mikolajewski con Arturo Mari, Aprile
2006, Polonia, trang 34-39)