Sáng thứ tư 2-3-2011 ông Clement Shahbaz Bhatti - tín hữu Công Giáo
- Bộ Trưởng Các Nhóm Tôn Giáo tại Pakistan bị một toán võ trang mang mặt nạ sát hại
tại thủ đô Islamabad, hưởng dương 42 tuổi. Những kẻ sát nhân để lại một truyền đơn
ký tên tổ chức ”Tehrik e Taliban Pakistan” và cho biết là giết chết ông Bhatti vì
ông chống lại luật phạm thượng Hồi giáo.
Ông Clement Shahbaz Bhatti là người
Công Giáo đầu tiên đặc trách dân thiểu số tại Pakistan. Ông được Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI tiếp kiến tại Vatican hồi tháng 9 năm 2010. Ông là người chân thành yêu nước
và luôn chiến đấu cũng như dấn thân cổ võ sự sống chung hòa bình giữa các cộng đồng
tôn giáo tại Pakistan. Trong buổi đọc Kinh Truyền Tin chung vào trưa Chúa Nhật 6-3-2011
Đức Thánh Cha nói: - Tôi cầu xin Đức Chúa GIÊSU
cho cuộc hy sinh mạng sống thật cảm động của Bộ
Trưởng Pakistan Shahbaz Bhatti thức tỉnh nơi các lương
tâm lòng can đảm và sự dấn thân bảo vệ tự
do tôn giáo của mọi người và như thế,
thăng tiến nhân phẩm bình đẳng của họ.
Ông Clement Shahbaz Bhatti đã trang điểm vòng tình yêu dành cho Đức Chúa GIÊSU KITÔ
bằng cành lá chiến thắng tử đạo. Ông không phải tu sĩ nhưng là giáo dân, là tín hữu
Kitô bình thường dấn thân trong lãnh vực chính trị. Ông là tín hữu Công Giáo duy nhất
hiện diện trong Hội Đồng Bộ Trưởng của một quốc gia Hồi giáo. Nhưng ông không hề hổ
thẹn hoặc sợ hãi che dấu nhãn hiệu và danh xưng Công Giáo của mình. Không! Trái lại,
ông can đảm công khai tuyên bố: - Đức Chúa GIÊSU KITÔ là trung
tâm và là ý nghĩa tối hậu của cuộc đời tôi. Mạng sống
không thuộc về riêng ai nhưng chỉ được
cho mượn!
Và ngày 2-3-2011 mạng sống ấy được trả lại.
Thế nhưng, đây là cái chết báo trước. Ông Clement Shahbaz Bhatti biết rõ hiểm nguy
đang chờ đón mình nên cách đây 3 tháng, ông tiên báo giờ cuối cùng của mình trong
một Video ghi lại chúc thư tinh thần để tưởng nhớ ông trong tương lai, nhưng xin chỉ
phổ biến sau biến cố đau thương.
Sau đây là Chúc Thư Tinh Thần
của ông Clement Shahbaz Bhatti, tín hữu Công Giáo, cố Bộ Trưởng Các
Nhóm Tôn Giáo tại Pakistan.
Tôi tên Shahbaz Bhatti. Tôi sinh ra
trong một gia đình Công Giáo. Thân phụ tôi, một giáo chức
về hưu, thân mẫu tôi, một bà nội trợ, các
ngài đã giáo dục tôi thể theo các giá trị Kitô và các giáo huấn của
Kinh Thánh, đã gây ảnh hưởng cho tuổi thơ
ấu của tôi.
Ngay từ nhỏ tôi thường
đến nhà thờ và tìm thấy niềm linh hứng sâu xa nơi các
lời giảng dạy, nơi sự hy sinh
và nơi cái chết trên Thánh Giá của Đức Chúa
GIÊSU. Chính Tình Yêu Đức Chúa GIÊSU đã
đưa tôi đến công tác phục vụ trong Giáo Hội.
Điều kiện sống tồi tệ của các tín hữu Kitô tại Pakistan làm tôi bàng
hoàng. Tôi nhớ vào một ngày thứ sáu Phục Sinh năm tôi mới
13 tuổi: tôi nghe một bài giảng về sự hy sinh của Đức
Chúa GIÊSU để cứu chuộc chúng ta và để cứu
rỗi thế giới. Tôi nghĩ mình sống phù hợp với Tình Yêu của Đức
Chúa GIÊSU khi yêu thương anh chị em mình, khi dấn thân phục vụ các
tín hữu Kitô, đặc biệt người
nghèo, người túng thiếu và những ai bị bách hại đang sống
tại đất nước hồi giáo này.
Người ta xin tôi chấm dứt cuộc tranh đấu,
nhưng tôi luôn từ chối, cho dầu phải hy sinh chính mạng sống của tôi.
Câu trả lời của tôi luôn luôn giống nhau. Tôi không muốn được
nổi danh, không muốn địa vị quyền bính cao. Tôi chỉ muốn
một chỗ dưới chân Đức Chúa
GIÊSU. Tôi muốn rằng cuộc đời tôi, tính khí
tôi, các hành động của tôi nói thay cho tôi, và chúng nói rằng
tôi đang bước theo Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Niềm ước nguyện này mạnh mẽ trong tôi đến
độ tôi cảm thấy như được ưu
đãi - trong cuộc tranh đấu cố gắng
giúp đỡ người túng thiếu,
người nghèo, các tín hữu Kitô bị bách hại tại Pakistan - nếu
trong trường hợp Đức Chúa GIÊSU chấp thuận
sự hy sinh mạng sống của tôi.
Tôi muốn sống cho
Đức Chúa KITÔ và vì Người tôi muốn chết.
Tôi không hề cảm thấy sợ hãi nào trong xứ sở này. Nhiều lần các thành phần cực
đoan muốn sát hại tôi, muốn cầm tù tôi; họ đe dọa
tôi, bách hại tôi, gieo rắc kinh hoàng cho gia đình tôi.
Nhưng tôi nói rằng, bao lâu tôi còn sống,
cho đến hơi thở cuối cùng, tôi sẽ tiếp tục
phục vụ Đức Chúa GIÊSU và phục vụ thành phần nhân loại
đáng thương đang đau khổ, các Kitô-hữu, những
người cần giúp đỡ, người
nghèo.
Tôi tin rằng các tín hữu Kitô trên thế giới từng ra tay
cứu giúp người Hồi giáo bị lâm nạn trong trận
động đất hồi năm 2005 đã
xây dựng chiếc cầu liên-đới, yêu-thương,
cảm-thông, hợp-tác và khoan-hồng giữa hai tôn giáo. Nếu các cố gắng
này tiếp tục thì tôi tin rằng chúng ta sẽ thành công trong việc chiến thắng các con
tim và các tâm trí của những thành phần cực-đoan. Điều
này sẽ đưa đến một thay đổi
tích cực: người người không
còn thù ghét lẫn nhau, không còn giết hại nhau nhân danh tôn giáo, nhưng
sẽ yêu thương nhau, tạo lập mối hòa-điệu,
vun trồng hòa bình và cảm thông trong vùng đất này.
Tôi tin rằng những người túng thiếu, những
người nghèo khổ, các trẻ mồ côi, thuộc bất cứ tôn giáo nào,
đều phải được cư xử
như những con người đúng nghĩa
là con người. Tôi nghĩ rằng tất cả những người
này thuộc về cơ thể của tôi trong Đức
Chúa KITÔ, rằng họ là thành phần bị bách hại và cần được
giúp đỡ của Thân Thể Đức Chúa KITÔ. Nếu
chúng ta có thể thành công trong việc chu toàn sứ mạng này, thì chúng ta sẽ chiếm
được một chỗ dưới chân Đức
Chúa GIÊSU và tôi có thể chiêm ngắm thánh nhan Ngài mà không hề cảm thấy hổ thẹn.
... ”Chúa CHA yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy.
Anh em hãy ở lại trong Tình Yêu của Thầy. Nếu anh em giữ các điều
răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong Tình Yêu của Thầy, như Thầy
đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong
Tình Yêu của Người. Các điều ấy, Thầy đã
nói với anh em để anh em được hưởng niềm
vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. Đây là
điều răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy
đã yêu thương anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn
tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu của mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều
Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc
chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy
nghe được nơi CHA Thầy, Thầy đã nói cho anh em
biết” (Gioan 15,9-15).
(”CORRIERE DELLA SERA” Quotidiano, Edizione
Romana, Giovedi 3 Marzo 2011, Anno 136, n.52, trang 17)