Tinh thần tự do đích thực loại trừ bạo lực, âu lo và bối rối
Tinh thần tự do đích thực loại trừ bạo lực, âu lo và bối rối, chứ không loại bỏ sự
vâng lời. Lý tưởng tự do mà loài người khát khao chỉ được thực hiện với sự tràn đầy
trong Thiên Chúa, chứ không qua bạo lực và sợ hãi.
Đức Thánh Cha đã khẳng
định như trên với gần 8.000 tín hữu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 2-3-2011
trong đại thính đường Phaolô VI.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giới thiệu
gương mặt thánh Phanxicô De Sales, Giám Mục, Tiến sĩ Giáo Hội. Ngài nói về
tiểu sử thánh nhân như sau:
Sinh năm 1567 trong một vùng biên giới nước Pháp,
người là con ông chúa vùng Boisy, một gia đình thượng lưu quyền qúy nhà Savoia. Sống
giữa hai thế kỷ XVI-XVII, thánh nhân quy tụ nơi mình cái tinh túy của các giáo huấn
và các chinh phục văn hóa thời đó, bằng cách hòa giải gia tài của thuyết nhân bản
với sự thúc đẩy hướng tới cái tuyệt đối của các trào lưu thần bí.
Tại Paris
người học cao học và triết học, tại đại học Padova bên Italia người theo học luật
như thân phụ muốn, và lấy bằng tiến sĩ lưỡng luật: giáo luật và dân luật. Trong thời
thanh xuân, khi suy tư về tư tưởng của thánh Agostino và thánh Toma thành Aquino,
Phanxicô gặp khủng hoảng nặng liên quan tới ơn cứu rỗi và sự tiền định của mình, nghi
ngờ đến mất ăn mất ngủ trong mấy tuần liền và sống các vấn đề thần học thời đó như
là thảm cảnh tinh thần. Sau cuộc thử thách, Phanxicô đến nhà thờ các cha dòng Đaminh
ở Paris, rộng mở con tim cho Chúa và cầu nguyện như sau: ”Lậy Chúa là Đấng nắm giữ
mọi sự trong tay, và các con đường của Ngài là công lý và sự thật, bất cứ sự gì xảy
ra, bất cứ gì Chúa đã thiết định cho con.. Chúa luôn luôn là thẩm phán công bằng và
là Cha thương xót, con sẽ yêu Chúa, lạy Chúa... Con sẽ yêu Chúa ở đây và sẽ luôn luôn
hy vọng nơi lòng thương xót Chúa và sẽ luôn luôn lập lại lời ca ngợi Chúa.. Ôi lậy
Chúa Giêsu, Chúa sẽ luôn mãi là niềm hy vọng và ơn cứu độ của con trên cõi đất của
các kẻ sống” (I Proc. Canon., Vol I, art 4).
Từ đó Phanxicô tìm được sự bình
an trong thực tại triệt để và giải thoát của tình yêu Chúa: yêu Chúa mà không thắc
mắc đòi hỏi gì và hoàn toàn tín thác nơi tình yêu Chúa và thánh ý Ngài. Đây sẽ là
bí quyết cuộc sống của thánh nhân sẽ được trình bầy trong ”Khảo luận về tình yêu Thiên
Chúa”.
Thắng vượt mọi chống đối của thân phụ, ngày 18 tháng 12 năm 1593 Phanxicô
de Sales được thụ phong linh mục. Năm 1602 người trở thành Giám Mục Genève trong thời
gian thành phố này đã trở thành pháo đài của Tin Lành Calvin, đến độ tòa giám mục
của Đức Cha phải đặt tại Annecy. Là chủ chăn của một giáo phận miền núi nghèo và gặp
nhiều khó khăn, nhưng thánh nhân đã biết nếm hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên và núi rừng
và coi tất cả đều là lời ca ngợi Thiên Chúa.
Tuy gặp các khó khăn nhưng cuộc
sống và giáo huấn của thánh nhân xem ra có ảnh hưởng mênh mông đối với Âu châu thời
đó và các thế kỷ theo sau. Người là tông đồ, vị giảng thuyết, nhà văn, người hoạt
động và cầu nguyện, dấn thân thực hiện các lý tưởng của Công Đồng Chung Trento; bị
liên lụy trong cuộc tranh luận và đối thoại với các anh em tin lành, và sống kinh
nghiệm sự hữu hiệu của tương quan cá nhân và bác ái. Thánh nhân cũng đảm trách các
sứ mệnh ngoại giao trên bình diện âu châu và các nhiệm vụ làm trung hòa giải, nhưng
nhất là người hướng dẫn các linh hồn.
Từ cuộc gặp gỡ với một phụ nữ trẻ là
bà chúa vùng Charmoisy, người có chất liệu để viết các sách thiêng liêng được nhiều
người đọc nhất trong kỷ nguyên tân tiến. Từ sự hiệp thông tinh thần xâu xa với thánh
nữ Giovanna Francesca di Chantal sẽ nảy sinh dòng các nữ tu Thăm Viếng, có đặc tính
là sống sự thánh hiến hoàn toàn cho Thiên Chúa trong đơn sơ và khiêm tốn, chu toàn
các việc tầm thường hằng ngày một cách phi thường.
Cuộc sống của thánh Phanxicô
de Sales tương đối ngắn ngủi. Người qua đời năm 1622 khi mới 55 tuổi, nhưng gương
mặt của người dã tỏa ra một sự tràn đầy, thanh thản và phong phú với các giáo huấn
có ảnh hưởng lớn trên lương tâm kitô.
Thánh nhân có nhiều quan niệm về từ
”nhân bản” và khiến cho nó có nghĩa là văn hóa và lịch thiệp, tự do và dịu dàng, cao
qúy và liên đới.
Trong cuốn ”Dẫn nhập vào cuộc sống đạo
đức” viết cho bà Filotea năm 1607, thánh nhân mời gọi tín hữu hoàn toàn
thuộc về Thiên Chúa, sống tràn đầy hiện tại trong thế giới này và chu toàn các bổn
phận của mình. Lời mời gọi tín hữu giáo dân săn sóc việc thánh hiến các thực tại trần
thế và thánh hóa cuộc sống thường ngày sẽ được Công Đồng Chung Vaticăng II đề cao
và cũng là tinh thần tu đức của chúng ta ngày nay.
Trong ”Khảo luận về tình
yêu Thiên Chúa” viết cho Teotimo năm 1616, thánh Phanxicô đưa ra một quan điểm chính
xác về con người, một nền nhân chủng học, trong đó lý trí hay ”linh hồn lý luận” được
coi như một kiến trúc hài hòa, một đền thờ, có nhiều chỗ chung quanh một trung tâm
gọi là ”đỉnh” ”chóp” của tinh thần, hay ”đáy” của linh hồn. Đó là nơi, sau khi đã
qua hết các mức độ của nó, lý trí ”khép mắt” và sự hiểu biết trở thành tất cả là một
với tình yêu (x. libro I, cap.XII). Đức Thánh Cha khai triển điểm này như sau:
Rằng tình yêu, trong chiều kích đối thần, thiên linh của nó, là lý do hiện hữu của
tất cả mọi sự, trong một chiếc thang đi lên, xem ra không có đổ gẫy và vực thẳm, thì
thánh Phanxicô de Sales đã tóm tắt trong câu nổi tiếng này: ”Con người là sự toàn
thiện của vũ trụ; tinh thần là sự toàn thiện của con người; tình yêu là sự toàn thiện
của tinh thần; và bác ái là sự toàn thiện của tình yêu” (ibid. libro X, cap.I).
Trong thời văn chương thần bí nở hoa, Khảo luận nói trên của thánh nhân là một tổng
luận đích thật, đồng thời cũng là một tác phẩm văn chương hấp dẫn. Lộ trình dẫn tới
Thiên Chúa bắt đầu với sự hướng chiều tự nhiên, được khắc ghi trong trái tim con người
dù là tội lỗi, để nó yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Theo mô thức của Thánh Kinh
thánh Phanxicô nói tới sự kết hiệp giữa Thiên Chúa và con người bằng cách khai triển
một loạt các hình ảnh tương quan liên bản vị. Thiên Chúa của thánh nhân là cha và
chúa, là phu quân và bạn, có các đặc tính như người mẹ và vú nuôi, là mặt trời mà
đêm đen cũng là sự mạc khải bí nhiệm. Vì Thiên Chúa ấy lôi kéo con người bằng các
mối dây tình yêu, nghĩa là sự tự do thật: ”bởi vì tình yêu không có các kẻ bị cưỡng
bách và nô lệ, mà biến mọi sự ở dưới sự vâng phục mình với một sức mạnh ngọt ngào
đến nỗi không có gì mạnh hơn tình yêu, không có gì dễ thương như sức mạnh của nó”
(ibid libro I, cap.VI).
Tuyệt đỉnh sự kết hiệp với Thiên Chúa, ngoài các cuộc
xuất thần khi chiêm niệm, là sự tràn đầy tình bác ái cụ thể, chú ý tới tất cả mọi
nhu cầu của tha nhân mà thánh nhân gọi là ”xuất thần của sự sống và các công việc”...
Thánh Phanxicô de Sales viết cho thánh nữ Chantal như sau: ”Đây là luật
sự vâng lời của chúng ta mà cha viết bằng chữ hoa: LÀM TẤT CẢ VÌ TÌNH YÊU - KHÔNG
CÓ GÌ LÀ CƯỠNG BÁCH - YÊU MẾN VÂNG LỜI HƠN LÀ SỢ HÃI VIỆC
BẤT TÙNG PHỤC. Cha để lại cho các con tinh thần tự do, không phải tinh
thần loại bỏ sự vâng lời là tinh thần của thế gian; nhưng là tinh thần
loại trừ bạo lực, âu lo và bối rối” (Lettera del 14 ottobre 1604). Không phải
vô tình mà nhiều con đường sư phạm và tu đức thời đại chúng ta tìm thấy nguồn gốc
của chúng trong các tác phẩm và tư tưởng của thánh Phanxicô de Sales... Thánh Phanxicô
de Sales là một chứng nhân gương mẫu của thuyết nhân bản kitô. Với giọng văn thân
tình, với các lời đôi khi có cú đập cánh của thơ phú, người nhắc cho biết rằng con
người mang trong trong mình nỗi nhớ nhung Thiên Chúa được khắc ghi trong nó và chỉ
nơi Thiên Chúa con người mới tìm ra niềm vui đích thật và sự hiện thực tràn đầy.
Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha,
Bồ Đào Nha, Ba Lan, Tscheques, Slovac, Croat, và Ý. Chào người trẻ ngài khích lệ họ
chuẩn bị đương đầu với các chặng quan trọng của cuộc sống với dấn thân tinh thần và
xây dựng mọi dự án trên các nền tảng vững chắc của lòng trung thành với Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha xin các anh chị em bệnh nhân dâng mọi khổ đau cho Thiên Chúa Cha, kết
hiệp với các khổ đau của Chúa Kitô để góp phần xây dựng Nước Chúa. Ngài nhắn nhủ các
cặp vợ chồng mới cưới biết xây dựng cuộc sống gia đình trên việc lắng nghe Lời Chúa,
chung thủy với nhau trong tình yêu và tiếp đón những người cần trợ giúp nhất.
Sau cùng ngài cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tào thành cho mọi người.