Công bố Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân ngày Hòa bình
thế giới 2011
VATICAN. Sáng 16-11-2010, Sứ điệp của ĐTC Biển Đức 16 nhân ngày hòa bình thế giới
1-1-2011 sắp tới đã được công bố với chủ đề ”Tự do tôn giáo, con đường dẫn đến hòa
bình”.
Sứ điệp được ĐHY Peter Turkson, người Ghana, Chủ tịch Hội đồng Tòa
Thánh, cùng với vị Tổng thư ký là Đức Cha Mario Toso SDB, giới thiệu với giới báo
chí trong cuộc họp báo tại Phòng báo chí Tòa Thánh. Sứ điệp của ĐTC gồm 15 đoạn, trong
đó ngài nói đến tầm quan trọng, ý nghĩa và nguồn gốc của tự do tôn giáo, tương quan
giữa quyền tự do này với hòa bình, chiều kích công cộng của tôn giáo và những nguy
cơ lạm dụng tự do tôn giáo.
ĐTC đặc biệt tố giác trào lưu cực đoan và sự thù
nghịch chống các tín hữu Kitô do quan niệm duy đời cực đoan (laicisme). Ngài viết:
”Xã hội nào muốn áp đặt, hoặc trái lại, muốn dùng bạo lực để chối bỏ tôn giáo, là
một xã hội bất công đối với con người và Thiên Chúa, và đối với cả chính mình nữa”.
ĐTC lên án các cuộc bách hại và kỳ thị tôn giáo nhất là những hành động bạo lực và
bất bao dung chống tôn giáo dựa trên tôn giáo. Ngài khẳng định rằng: ”Đặc biệt tại
Á, Phi, nạn nhân chính của những vụ này là thành phần các nhóm tôn giáo thiểu số:
họ bị cấm không được tự do tuyên xưng tôn giáo hoặc thay đổi tôn giáo, bằng những
hành động dọa nạt hoặc vi phạm các quyền và tự do căn bản, cũng như những thiện ích
của cải cơ bản của họ, thậm chí đến độ cầm tù hoặc tước đoạt sự sống của họ”.
ĐTC không quên lên án những hình thức thù nghịch một cách tinh vi hơn, chống lại tôn
giáo, như ta thấy tại nhiều nước tây phương. Những hình thức đó được diễn tả qua sự
chối bỏ lịch sử và các biểu tượng tôn giáo trong đó có phản ánh căn tính và văn hóa
của đại đa số công dân. Những hình thức ấy thường nuôi dưỡng sự oán ghét và thành
kiến, và không phù hợp với quan niệm thanh thản và quân bình về sự đa nguyên và đặc
tính đời của các tổ chức, không kể sự kiện chúng có thể ngăn cản các thế hệ trẻ tiếp
xúc với gia sản tinh thần quí giá của đất nước họ”.
Bài giới thiệu của
ĐHY Turkson
1. Dẫn nhập Sứ điệp gồm có lời ĐTC chúc mừng Năm
Mới, và nhắc đến cuộc tấn công chống các tín hữu Kitô tại Irak. Trong phần chính của
sứ điệp, ĐTC trình bày ý nghĩa tự do tôn giáo và những thể thức khác nhau qua đó tự
do này dẫn đến hòa bình và những kinh nghiệm về hòa bình, và sau cùng là kết luận
suy tư về hòa bình như một hồng ân của Thiên Chúa và đồng thời cũng là công trình
của những người nam nữ thiện chí, và trước tiên là của các tín hữu. ĐHY Turkson
nhận xét rằng Tự do tôn giáo là đề tài sứ điệp của ĐTC cho ngày Hòa Bình thế giới
sắp tới, không những vì đề tài này ở trọng tâm đạo lý xã hội Công Giáo, nhưng còn
vì cuộc sống tự do tôn giáo - như một ơn gọi cơ bản của con người, một nhân quyền
bất khả nhượng và phổ quát, và là một chìa khóa hòa bình - tự do ấy tiếp tục bị đe
dọa: - trước tiên từ phía trào lưu tục hóa quá khích, tỏ ra bất bao dung đối với
Thiên Chúa và mọi hình thức biểu lộ tôn giáo - tiếp đến là từ phía trào lưu cực
đoan về tôn giáo, chính trị hóa tôn giáo và áp đặt các đạo của nhà nước; - ngoài
ra, tự do tôn giáo cũng bị đe dọa vì sự nảy sinh trào lưu duy tương đối về văn hóa
và tôn giáo ngày càng lan tràn và mạnh mẽ ngày nay. Chính sự hoàn cầu hóa - vốn
làm gia tăng sự lệ thuộc nhau và những hình thức quan hệ mới, sự đi lại dễ dàng hơn
của con người, sự đối chiếu giữa các nền văn hóa và tôn giáo, - cũng bị lợi dụng,
nhất là trong lãnh vực tôn giáo, để đạt tới hậu quả đối ngược là làm cho nền văn hóa
của nhân loại trở nên nghèo nàn hơn và xúi giục thái độ bất bao dung, phủ nhận và
chối bỏ quyền tự do tôn giáo. Trong Sứ điệp, ĐTC coi việc bảo vệ tự do tôn giáo
trong thế giới đa văn hóa, đa tôn giáo và bị tục hóa ngày nay như một trong những
cách thức để bảo vệ hòa bình thế giới. 2.Bối cảnh
Sang đến bối cảnh Sứ điệp của ĐTC, ĐHY Turkson nhắc lại rằng một trong những nghĩa
vụ quan trọng được đề ra cho thế giới chúng ta sau thế chiến thứ hai là việc soạn
thảo, chấp nhận và công bố Tuyên ngôn Quốc Tế nhân quyền năm 1948. Bối cảnh khiến
LHQ đề ra tuyên ngôn này chính là các ý thức hệ độc tài, những bất công và kinh hoàng
do chiến tranh. Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền là một đại hiến chương về sự bao dung,
tôn trọng lẫn nhau, công lý, hòa bình, công ích của nhân loại. Điều số 18 của Tuyên
ngôn khẳng định tự do tôn giáo như sau: ”Quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo,
quyền này bao gồm tự do thay đổi tôn giáo hoặc tín ngưỡng, và tự do biểu lộ một cách
biệt lập hoặc chung, công khai hoặc riêng tư, tôn giáo hoặc tín ngưỡng của mình qua
việc phụng tự, giảng dạy, thực hành và tuân giữ các lễ nghi”.! ĐGH Biển Đức 16
đã ca ngợi Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền vì đã ”cho phép các nền văn hóa khác nhau,
các hệ thống pháp lý và kiễu mẫu định chế đồng quy chung quanh một nòng cốt cơ bản
của các gia trị, và các quyền, nhưng ĐTC cũng tỏ ra lo âu vì càng ngày càng có những
tổ chức phủ nhận tính chất phổ quát của các quyền ấy nhân danh những quan điểm khác
nhau về văn hóa, chính trị, xã hội và thậm chí cả tôn giáo nữa. Sứ điệp của ĐTC
nhắc đến vụ Lautsi được đưa ra trước tòa án nhân quyền Âu Châu nhắm chống treo thánh
giá tại các trường công lập ở Italia, vụ bà Asia Bibi ở Pakistan bị kết án tử hình
về tội gọi là phạm thượng chống Hồi giáo, hoặc trường hợp các tín hữu Kitô bị kỳ thị
ở miền nam Sudan, tại Trung Đông, hoặc có những bác sĩ không được giấy phép hành nghề
vì không muốn phá thai, hoặc trường hợp những nước đang trên đường phát triển từ chối
không những viện trợ có kèm theo những điều kiện đi ngược với xác tín tôn giáo và
luân lý của họ, v.v.. Sứ điệp của ĐTC nhân ngày Hòa bình thế giới 2011 được gửi
đến những người thiện chí. Văn kiện này nằm trong bối cảnh vừa nói và ngài nhắc đến
những vụ phủ nhận quyền phổ quát về tự do tôn giáo dựa trên một sự lèo lái về văn
hóa, chính trị và tôn giáo, kể cả từ phía những quốc gia đã phê chuẩn Tuyên ngôn quốc
tế nhân quyền. Sự phủ nhận này làm lu mờ sự thật về con người, coi rẻ phẩm giá con
người, làm thương tổn sự tôn trọng các quyền của người khác, và xét cho cùng, thái
độ ấy đe dọa hòa bình thế giới.
3. Các đề tài Tiếp tục bài
giới thiệu Sứ điệp hòa bình của ĐTC, ĐHY Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Công lý và Hòa
bình nói đến các đề tài chính của Sứ điệp.
- trước tiên là bản chất tự
do tôn giáo. Tự do này là một con đường dẫn tới hòa bình vì nó ăn rễ sâu nơi nơi
phẩm giá con người, vốn có một ơn gọi siêu việt. Tự do tôn giáo diễn tả khả năng và
ước muốn của mỗi người tìm cách thể hiện hoàn toàn bản thân trong tương quan cởi mở
đối với Thiên Chúa và tha nhân. Tự do tôn giáo diễn tả sự tìm kiếm một ý nghĩa trong
cuộc sống và khám phá các giá trị cũng như các nguyên tắc làm cho cuộc sống được tràn
đầy ý nghĩa, hoặc một mình hoặc chung với cộng đoàn. Xét cho cùng, tự do tôn giáo
diễn tả khả năng của con người trong việc tìm kiếm chân lý về Thiên Chúa và về chính
mình, xét vì con người kiến tạo một xã hội trần thế báo trước xã hội quốc, xã hội
công bằng, hòa bình và hạnh phúc. - đề tài thứ hai là quyền tự do tôn giáo.
Tự do tôn giáo được coi như một quyền con người không phải vì Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền của LHQ đã khẳng định. Tự do tôn giáo không phải là một quyền do Nhà nước ban
phát. Nền tảng của nó không phải do sự thiết định của con người. Cùng với các quyền
khác, tự do tôn giáo xuất phát từ luật luân lý tự nhiên và từ phẩm giá còn người,
vốn là thành phần công trình sáng tạo của Thiên Chúa, như Đức Gioan 23 và đạo lý kế
tiếp của Giáo Hội đã dạy. Và như ĐTC Biển Đức 16 đã nhắc đến trong sứ điệp Hòa bình
năm 2011, Nhà nước và các tổ chức công cộng khác cần phải nhìn nhận quyền tự do tôn
giáo như một điều nội tại đối với con người, như một yếu tố không thể thiếu được để
bảo vệ sự toàn vẹn của con người và hòa bình. - Một đề tài khác cũng được ĐTC
đề cập đến trong sứ điệp là: tự do tôn giáo và nghĩa vụ của chính quyền. Mặc
dù tự do tôn giáo không cần nhà nước để được thiết lập, và Tuyên ngôn quốc tế nhân
quyền cũng qui định điều này là: quyền tự do tôn giáo không phải là một quyền vô giới
hạn. Để bảo đảm cho tự do tôn giáo phục vụ hòa bình và không bị lạm dụng như trong
vụ mục sư Jim Jones và nhóm của ông ở Guyanna, Sứ điệp của ĐTC viết ”giới hạn đúng
đắn trong việc thực thi quyền tự do tôn giáo phải được xác định trong mọi hoàn cảnh
xã hội một cách khôn ngoan về chính trị, theo những đòi hỏi của công ích” (n.10).
- Một vấn đề khác được bàn tới trong sứ điệp là tự do tôn giáo và sự tìm kiếm chân
lý. Tự do tôn giáo là tự do không bị cưỡng bách và tự do đối với sự thật, như
ĐTC đã nhắc trong số 3 của Sứ điệp: chân lý tôn giáo được hướng về sự tìm kiếm Thiên
Chúa đấng Tạo Hóa. Chính sự thật tuyệt đối về Thiên Chúa, ước muốn của tâm hồn con
người, khơi dậy nơi họ lời đáp trả bằng cách tự do gắn bó với chân lý ấy. Tự do tôn
giáo nói về quyền của con người được diễn tả khả năng đón nhận Thiên Chúa: tự do của
con người đáp lại chân lý về bản chất của mình trong tư cách đã được Thiên Chúa dựng
nên và được tạo thành để sốngvới thiên Chúa, không bị cưỡng bách hay cản trở. Chính
nhờ đó con người tìm được niềm an bình của mình và trở thành một dụng cụ thòa bình.
- Tự do tôn giáo và căn tính. Trong đoạn số 11 của Sứ điệp ĐTC nhấn
mạnh rằng tự do tôn giáo không có nghĩa là tất cả các tôn giáo đều như nhau. Tự do
ấy cũng không phải là động lực đưa tới thái độ duy tương đối về tôn giáo hoặc dửng
dưng. Tự do tôn giáo có thể dung hợp với sự bảo vệ căn tính tôn giáo của mình chống
lại sự duy tương đối, tôn giáo hỗn hợp và thái độ tôn giáo cực đoan: đó là những hình
thức lạm dụng tự do tôn giáo.
ĐTC cũng nêu bật chiều kích
cộng đoàn của tự do tôn giáo. Tự do này diễn tả tính chất cá nhân
đồng thời cũng có tính chất cộng đoàn (n.6). Tự do tôn giáo không chỉ thu hẹp vào
việc tự do phụng tự. Nó cũng có một chiều kích công cộng, điều này cho phép các tín
hữu được góp phần xây dựng trật tự xã hội. Ở đây chúng ta nhắc đến 4 người đã kiến
thiết Liên hiệp Âu Châu đó là Adenauer người Đức, De Gasperi người Ý, Schuman và Monet
người Pháp,, các trung tâm huấn luyện và văn hóa của Giáo Hội, rất nhiều dự án phát
triển, trợ giúp y tế, giáo dục của Giáo Hội tại các xứ truyền giáo, v.v.
Như ĐTC Biển Đức 16 đã khẳng định,
đạo lý xã hội của Công Giáo được đề ra là để đòi quyền công dân cho Giáo Hội Công
Giáo. Phủ nhận quyền được tuyên xưng tôn giáo của mình nơi công cộng và quyền đưa
chân lý đức tin để nâng đỡ đời sống xã hội sẽ đưa tới những hậu quả tiêu cực cho sự
phát triển đích thực. Đồng thời, việc không nhìn nhận sự đóng góp cho xã hội, dựa
trên chiều kích tôn giáo và trong sự tìm kiếm Đấng Tuyệt đối chắc chắn sẽ dành ưu
tiên cho lối tiếp cận cá nhân chủ nghĩa và làm băng hoại sự thống nhất của nhân vị.
Việc thực thi quyền tự do tôn giáo như con đường dẫn đến hòa bình bao hàm việc nhìn
nhận sự hòa hợp cần phải có giữa hai lãnh vực và hình thức cuộc sống: riêng tư và
công cộng, cá nhân và cộng đoàn. Một tín hữu Công Giáo không phải chỉ là một chủ thể
có quyền tự do tôn giáo, nhưng còn là thành phần của một tập thể. Vì thế, khi tùng
phục tập thể ấy không phải là mất tự do. Nó trở thành biểu hiệu sự trung thành với
tập thể và sự trung thành chính là sự phát triển tự do.
- Vấn đề Tự
do tôn giáo và Nhà Nước. Sứ điệp của ĐTC khẳng định rằng mặc dù tự do tôn
giáo không do nhà nước tạo nên, nhưng Nhà nước phải nhìn nhận tự do tôn giáo như là
điều nội tại đối với con người cũng như nhìn nhận những hình thức diễn tả tự do tôn
giáo ấy một cách công cộng và cộng đoàn. Sự nhìn nhận tự do tôn giáo và tôn trọng
phẩm giá nội tại của mỗi người cũng bao hàm nguyên tắc Nhà nước có trách nhiệm bảo
vệ cộng đoàn, xã hội và quốc gia. ”Mỗi nhà nước có nghĩa vụ đầu tiên phải bảo vệ dân
chúng của mình chốn glại những vi phạm trầm trọng và liên tục đối với các quyền con
người... Nếu Nhà nước không có khả năng bảo vệ như thế, thì cộng đồng quốc tế phải
can thiệp bằng những phương tiện pháp luật đã được Hiến chương LHQ trù liệu và qua
các văn kiện quốc tế khác”.
- Tự do tôn giáo được
thúc đẩy do tình liên đới chứ không phải do sự hỗ tương
(réprocité). Những lời kêu gọi của Giáo Hội cho tự do tôn giáo không nhắm đòi
hỏi đặc tính hỗ tương của một cộng đoàn tín hữu. Đúng ra, những lời kêu gọi tự do
tôn giáo dựa trên phẩm giá của con người, Chúng ta tôn trọng các quyền của người khác
vì đó là điều đúng đắn phải làm, chứ không phải để được một sự tương đương hay để
vì một ân huệ nhận được. Đồng thời khi những người khác chịu bị bách hại tín ngưỡng
và bị cấm cản không được thực hành tôn giáo, chúng ta cảm thông và liên đới với họ.
4. Trong phần kết luận, ĐTC nói đến tự do tôn giáo và nghĩa vụ truyền giáo. Nghĩa
vụ Chúa Giêsu ủy thác cho các tông đồ của ngài ra đi rao giảng tin Mừng cho thế giới
đưa chúng ta đến chỗ cứu xét quan hệ giữa tự do và chân lý tron gviệc thực thi tự
do tôn giáo. Như thánh Augustino đã nhận xét, không có gì mà linh hồn mong ước mạnh
mẽ hơn là chân lý. Và tự do đích thực mong muốn chân lý tuyệt đối là Thiên Chúa. Toàn
thể việc loan báo Tin Mừng, là một cố gắng khơi dậy tự do, tự do tôn giáo của con
người, để họ mong ước và đón nhận chân lý Tin Mừng. Chân lý Phúc Âm có đặc tính duy
nhất vì là chân lý cứu độ (Mt 16,15-16). Chân lý này khác với các chân lý khác vốn
là thành quả hoạt động tri thức của con người. Vì thế, nghĩa vụ truyền giảng Tin
Mừng không trái ngược và không chống lại ý nghĩa của tự do tôn giáo. Đúng hơn việc
rao giảng Tin Mừng khơi dậy tự do tôn giáo của mỗi người và hướng dẫn tới chân lý
cứu độ, với hy vọng rằng con người, trong tự do tôn giáo của họ, mong ước và đón nhận
chân lý cứu độ. Khi đón nhận như thế, mọi tự do tôn giáo được hưởng an nình được ban
cho mọi người Chúa thương!