Theo ý kiến các Thánh Giáo Phụ và Thánh Sử thì Thánh Tađđêô Tông Đồ
thuộc hoàng tộc Đavít. Thật vậy, thân phụ Thánh Tađđêô - ông Clêôpha - là bào huynh
của Thánh Cả GIUSE. Thân mẫu Thánh Tađđêô - bà Maria Clêôpha - là chị em họ với Đức
Nữ Trinh Rất Thánh MARIA.
Thánh Tađđêô là một trong 12 Tông Đồ và theo Thánh
sử Marcô, ngài chiếm hàng thứ 10, còn theo Thánh sử Luca, ngài xếp hàng thứ 11.
Lãnh vực hoạt động tông đồ của Thánh Tađđêô thật mênh mông. Trước tiên, ngài rao giảng
Tin Mừng tại Giuđêa, rồi đến Mesopotamia và sau cùng tại Ba-Tư. Đi đến đâu, Thánh
Tađđêô đều phổ biến chân lý Ngôi Lời nhập thể và làm nhiều phép lạ nhân danh Đức Chúa
GIÊSU KITÔ. Rất đông môn đệ theo ngài và con số Kitô hữu mỗi ngày một gia tăng. Ngài
chỉ định các phó tế, Linh Mục, Giám Mục và thành lập các giáo đoàn địa phương tại
tất cả nơi nào ngài truyền đạo.
Khi đến Ba-Tư, Thánh Tađđêô nhập chung với
Thánh Simon, biệt danh ”Quá Khích” (Mc 3,18 + Lc 6,15). Tại đây cả hai vị phải đương
đầu với bè rối do Zaroes và Arfexat, hai thầy tế lễ ngoại giáo cầm đầu. Hai tư tế
này xúi giục dân chúng nổi loạn, chống lại các lời rao giảng và hoạt động của hai
Thánh Tông Đồ Tađđêô và Simon.
Thánh Tađđêô biết rõ sứ mệnh trần thế của mình
sắp chấm dứt và triều thiên tử đạo vì vinh quang THIÊN CHÚA chắc chắn cũng gần kề.
Khi đến thành Suamyr một trung tâm lớn của Ba-Tư, hai thánh tông đồ Tađđêô và Simon
trọ nơi nhà ông Semme, đồ đệ của các ngài. Ngay sáng sớm hôm sau, các tư tế ngoại
giáo của thành phố, bị thấm nhiễm độc dược của Zaroes và Arfexat, hô hào dân chúng
đến bao vây nhà ông Semme. Họ gào thét: - Hỡi ông Semme, hãy giao nộp hai kẻ thù
các thần linh cho chúng tôi. Nếu không, chúng tôi sẽ đốt cháy nhà ông!
Nghe
lời dọa nạt độc dữ ấy, hai Thánh Tông Đồ Tađđêô và Simon liền tự nộp mình. Họ buộc
các ngài phải thờ lạy các thần linh ngoại giáo. Dĩ nhiên các ngài từ chối. Họ tàn
nhẫn đánh đập các ngài. Giữa máu đào, trong giây phút linh thiêng cuối đời, Thánh
Tađđêô còn lấy chút nghị lực sau cùng, nhìn thẳng vào mặt Thánh Simon và nói:
- Hiền huynh dấu ái, tôi trông thấy Đức GIÊSU KITÔ Chúa chúng ta. Ngài
gọi chúng ta về với Ngài!
Khi hai Thánh Tông Đồ Tađđêô và Simon tắt thở,
hồn bay thẳng về thiên đàng, bầu trời thành phố Suamyr bỗng nổi cơn giông tố dữ dội.
Đền thờ ngoại giáo bị sét đánh sụp bình địa. Hai ông Zaroes và Arfexat bị chết tươi
tại chỗ.
Thánh Tađđêô Tông Đồ tử vì đạo ngày 28-10-70 theo niên lịch Kitô
Giáo, đúng 36 năm sau khi Đức Chúa GIÊSU KITÔ Thăng Thiên.
Di hài hai Thánh
Tông Đồ Tađđêô và Simon được gìn giữ tại Babilonia trong ngôi Thánh đường xây cất
dâng kính các ngài. Không bao lâu, đền thờ lôi cuốn đông đảo tín hữu đến hành hương
viếng mộ, vì các phép lạ nhờ lời chuyển cầu của Thánh Tađđêô Tông Đồ. Sau đó, di hài
hai vị được đưa về thủ đô Roma, đặt trong đền thờ Thánh Phêrô, dưới bàn thờ dâng kính
Thánh Cả GIUSE.
Từ ngôi mộ nằm phía bên trái đền thờ Thánh Phêrô, Thánh Tađđêô
Tông Đồ cầu bầu cùng THIÊN CHÚA, thi thố không biết bao nhiêu ơn lành cùng phép lạ,
cho tất cả những ai trọn lòng tin tưởng kêu van lên ngài. Thánh Tađđêô Tông Đồ được
các tín hữu Công Giáo đặc biệt khẩn nài trong những trường hợp hầu như tuyệt vọng,
không thể giải quyết hoặc vô phương chữa trị. Xin trích thuật một
số chứng từ của các tín hữu Công Giáo người Ý, sống tại giáo
đô Roma.
Bà Maria Pellegrini. Từ một năm nay, tôi đặt ảnh Thánh
Tađđêô Tông Đồ trong nhà để tôn kính. Tôi thường kêu van Thánh nhân cầu bầu trợ giúp
vào những lúc nguy nan khốn khó. Một buổi sáng thức giấc, tôi trông thấy bé Andrea
nằm im bất động. Hoảng hồn, tôi gọi điện thoại cho một bác sĩ, ở cùng tòa nhà với
tôi. Sau khi khám bệnh, bác sĩ cho biết bé Andrea bị chứng bại-liệt trẻ con và khuyên
tôi mang bé tức khắc đến bệnh viện chuyên chữa trị bệnh này.
Trước khi rời
nhà mang bé Andrea đến nhà thương, tôi lấy khung ảnh Thánh Tađđêô Tông Đồ chạm vào
người bé. Vừa đặt ảnh tôi vừa tha thiết kêu xin Thánh Tađđêô cho con tôi tai qua nạn
khỏi.
Lạ lùng thay, tôi thấy bé Andrea bắt đầu cử động đôi tay và đôi chân.
Ngạc nhiên và vui mừng khôn tả, tôi gọi bác sĩ đến chẩn bệnh lại. Bác sĩ trở lại ngay
và xác nhận bé Andrea đã khỏi bệnh tức khắc và diệu kỳ. Điều này không thể giải thích
được về phương diện y khoa. Chắc chắn có sự can thiệp của Trời Cao. Từ đó đến nay
đã nhiều tháng trôi qua, phép lạ vẫn tiếp tục vì bé Andrea lớn lên khoẻ mạnh, không
đau yếu gì. Để tỏ lòng ghi ơn sự trợ giúp siêu nhiêu của Thánh Tađđêô Tông Đồ, tôi
xin công khai đăng chứng từ này. Tôi ước mong có nhiều người tôn kính và biết đến
sức cầu bầu vạn năng của Thánh nhân hầu kêu xin ngài trợ giúp trong những trường hợp
khốn cùng. Tôi xin chứng thực như vậy. Ký tên Maria Pellegrini.
Roma, 1962.
Ông Giovanni Luciani. Ngày 26-10-1966 tôi được đưa
vào khu Morgagni thuộc bệnh viện Thánh Camillo ở thủ đô Roma để điều trị khẩn trương.
Trước đó, tôi được giáo sư bác sĩ Pennacchia chẩn bệnh và cho biết: - Tôi bị chứng
loạn tim, gây ảnh hưởng sang khắp phần cơ thể, khiến việc tiểu tiện gặp khó khăn,
cộng thêm chứng sưng phổi.
Nghe tin không lành, Linh Mục bào huynh tôi cùng
với Cha Sở nhà thờ Thánh nữ Maria Goretti, Đức Ông Rebato di Veroli, cả hai vị tức
tốc đến thăm tôi. Thấy tình trạng tuyệt vọng, Cha Sở quyết định ban Bí Tích Xức Dầu
bệnh nhân cho tôi. Tôi vui mừng lãnh nhận với trọn lòng sốt sắng.
Tôi biết
rõ bệnh tình trầm trọng của mình, nhưng cùng lúc, tôi đặt trọn lòng tin tưởng nơi
sự cầu bầu của Thánh Tađđêô Tông Đồ. Lòng tin tưởng của tôi được Thánh nhân đáp lại
cách vô bờ bến. Tôi được lành bệnh trước sự ngạc nhiên của chính bác sĩ Pennacchia,
giám đốc khu Morgagni và các cộng sự viên của bác sĩ. Sau 47 ngày điều trị, tôi được
bác sĩ ký giấy xác nhận khỏi bệnh và cho phép xuất viện. Tôi xin chứng thực
như vậy. Ký tên. Giovanni Luciani. Roma, 1966.
Bà Concettina
di Benedetto. Tháng 7 năm 1959 tôi được đưa vào Bệnh Viện Toàn Khoa Roma và được
bác sĩ Cattani khám nghiệm. Kết quả cho biết tôi bị ung thư nơi đầu tử cung.
Bác sĩ quyết định dùng quang tuyến X để chữa trị. Nhưng chứng ung thư cứ tiếp tục
lan rộng. Trong khi đó tôi tha thiết van nài Thánh Tađđêô Tông Đồ cầu bầu cho tôi
khỏi bệnh. Tôi hoàn toàn tin tưởng nơi sự trợ giúp của Thánh nhân. Rồi đến ngày 15-10-1960,
ngày hẹn tái khám trước khi chữa trị bằng quang tuyến X lần thứ ba. Nhưng tả sao cho
hết nỗi kinh ngạc của bác sĩ Cattani khi bác sĩ thấy rằng chứng ung thư đã hoàn toàn
tan biến không để lại dấu vết gì. Bác sĩ liền ký giấy cho phép tôi xuất viện.
Tôi xin chứng thực như vậy. Ký tên. Concettina Di Benedetto. Roma, 1963.
Nữ giáo sư Giuliana Oppido. Từ thưở bé tôi đã có lòng mộ mến cách riêng
Thánh Tađđêô Tông Đồ. Cũng với trọn lòng mộ mến ấy, ngày 13-2-1958, tôi kết hôn dưới
sự bảo trợ của Thánh nhân. Hôn lễ, chuyến đi hưởng tuần trăng mật, cuộc sống lứa đôi,
tất cả diễn tiến tốt đẹp. Tôi ngụp lặn trong biển tình hạnh phúc. Thế nhưng, trong
dòng hạnh phúc ấy lại thiếu một nốt nhạc vui. Đó là sự chào đời của một đứa con.
Xét vì tuổi đã quá 30, nghĩa là tôi không còn trẻ thật trẻ, nên sau hai tháng lấy
nhau mà không thấy dấu hiệu gì, tôi bắt đầu lo sợ mình không còn khả năng thụ thai
nữa. Tôi tự nhủ: - Chắc rồi mình chỉ nên hài lòng với tình yêu của chồng, một
đức lang quân lý tưởng!
Trong khi đó tôi vẫn tiếp tục khẩn nài Thánh Tađđêô
Tông Đồ, xin ngài bổ túc hạnh phúc lứa đôi chúng tôi bằng phúc lành của một đứa con.
Thế rồi ngày 21-5-1958, tôi bỗng bị đau bụng dữ dội, cơn đau báo hiệu cho biết tôi
không thể nào thực hiện ước mơ có con. Tôi buồn khổ nghĩ rằng, thôi rồi chấm dứt niềm
vui trao ban cho chồng một đứa con, đứa con mà hẳn chàng cũng thầm kín mơ ước, bởi
lẽ với nghề bác sĩ, chàng thường có dịp trông thấy không biết bao nhiêu là ”quí vị”
con nít!
Ý nghĩ ấy dằn vặt tôi ngày đêm. Tuy nhiên, tôi vẫn tiếp tục tin tưởng
nơi sự trợ giúp của Thánh Tađđêô Tông Đồ. Hiền phu cũng khuyên tôi luôn vững tin nơi
lời chuyển cầu vạn năng của Thánh nhân trước tòa THIÊN CHÚA Nhân Lành. Chẳng bao lâu
sau, tôi thấy lời nài van được chấp nhận. Trái với mọi ước đoán và trước sự ngỡ ngàng
của các bác sĩ, tôi được loan báo mình mang thai. Tuy nhiên, khó khăn vẫn chưa hết.
Trong thời kỳ thai nghén, tôi lại gặp nhiều trục trặc. Cứ sự thường về phương diện
y khoa, tôi không thể nào mang thai cho đến thời kỳ sinh nở. Tôi phó thác mọi sự trong
bàn tay Quan Phòng THIÊN CHÚA.
Thế rồi, ngày 4-2-1959, tôi cho ra chào đời
một bé trai kháu khỉnh, mẹ tròn con vuông, trước sự hân hoan khôn tả của mọi người!
Thật là một phép lạ lớn lao. Tôi tin chắc chắn như vậy. Khi tôi viết những hàng này
để cao rao lòng từ bi THIÊN CHÚA và để làm chứng cho sự trợ giúp uy quyền của Thánh
Tađđêô Tông Đồ, thì bé trai con chúng tôi tròn 3 tháng. Bé mập mạnh tròn trĩnh nhờ
bú sữa mẹ. Để cho chứng tá của tôi thêm vững mạnh, tôi xin ghi thêm danh tánh của
bác sĩ Cataneo và của hiền phu tôi. Tôi xin chứng thực như vậy.
Ký tên: nữ giáo sư Giuliana Oppido. Roma, 1959.
Bà Grazia Agostinelli.
Chúa Nhật 20-11-1966 tôi lái xe cùng với đứa con gái đi Firenze (Bắc Ý). Như thường
lệ, trước khi lên xe, tôi kính cẩn làm dấu Thánh Giá và đặt chuyến đi dưới sự bảo
trợ của Thánh Tađđêô Tông Đồ.
Đi được nửa đường, trời bắt đầu mưa và gió thổi
mạnh. Đường trơn trợt. Chiếc xe bỗng quay vòng vòng. Chúng tôi tin chắc thế nào xe
cũng đâm vào bức tường cạnh đó. Cả hai mẹ con liền kêu cầu Thánh Tađđêô Tông Đồ cứu
giúp. Và lạ lùng thay, quay xong, chiếc xe đứng im tại chỗ. Nhờ thế, chúng tôi có
thể tiếp tục đi đến Firenze bình an vô sự.
Khi trở về Roma, tôi tức tốc đến
đền thờ Thánh Phêrô, nơi bàn thờ có mộ hai Thánh Tông Đồ Simon và Tađđêô để cảm tạ
sự che chở của Thánh Tađđêô Tông Đồ. Tôi xin chứng thực như vậy.
Ký tên. Grazia Agostinelli. Roma, 1966.
... Một vị thủ lãnh đến
gần bái lạy Đức Chúa GIÊSU và nói: ”Con gái tôi vừa mới chết.
Nhưng xin Ngài đến đặt tay lên cháu, là nó sẽ sống!” Đức
Chúa GIÊSU đứng dậy đi theo ông ấy, và các môn đệ
cũng đi với Người. Bỗng một người đàn bà
bị băng huyết đã mười hai
năm tiến đến phía sau Người và sờ vào tua áo của
Người, vì bà nghĩ bụng: ”Tôi chỉ cần sờ được vào áo của
Người thôi là sẽ được cứu!” Đức Chúa GIÊSU quay
lại thấy bà thì nói: ”Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa
con!” Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa (Matthêu 9,18-22).