Rất thường khi phụ nữ biến gia đình thành Giáo Hội tại gia, vì linh đạo hôn nhân
khiến cho các cặp vơ chồng, được trợ giúp bởi ơn thánh của Bí Tích Hôn Phối, cùng
nhau bước đi trên con đường thánh thiện, bằng cách sống theo các giá trị của Tin Mừng:
yêu thương, hiền dịu, trợ giúp lẫn nhau, sinh con cái và giáo dục chúng, cởi mở và
liên đới với thế giới, tham dự vào cuộc sống Giáo Hội.
Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI đã nói như trên với hơn 30.000 tín hữu tham dự buổi gặp gỡ chung tại quảng
trường thánh Phêrô.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã giới thiệu gương mặt
của một vị thánh nổi tiếng thuộc thế kỷ XIV: đó là thánh nữ Brigida nước Thụy Điển.
Thánh nữ sinh năm 1303 tai Finster bên Thụỵ điển và qua đời năm 1373 tại Roma. Theo
tiểu sử do các con cái thiêng liêng của thánh nữ thu thập cho án phong thánh của thánh
nữ, có thể chia cuộc sống của người thành ba giai đoạn.
Giai đoạn đầu là cuộc
sống của một phụ nữ lập gia đình hạnh phúc. Chồng thánh nữ là ông Ulf, quan thống
đốc một quận của vương quốc Thụy Điển. Cuộc sống hôn nhân kéo dài 28 năm, và hai người
có 8 người con. Con gái thứ hai là Karin cũng được tôn kính như vị thánh. Sự khôn
ngoan sư phạm của thánh nữ được vua Magnus Thuy Điển đánh giá cao, và nhà vua mời
Brigida vào hoàng cung sống một thời gian để hướng dẫn hoàng hậu Bianca thành Namur
trong việc hiểu biết nền văn hóa Thụy Điển. Đức Thánh Cha nói về cuộc sống của thánh
Brigida như sau:
Được hướng dẫn trên đường thiêng liêng bởi một tu sĩ thông
thái với việc học Kinh Thánh, Brigida có ảnh hưởng rất tích cực trên gia đình mình.
Nhờ sự hiện diện của thánh nữ, nó trở thành một ”giáo hội tại gia” đích thật. Thánh
nữ cùng chồng sống theo luật Dòng Ba Phanxicô, quảng đại làm việc bác ái đối với người
nghèo, và xây cả một nhà thương nữa. Bên cạnh vợ, thống đốc Ulf tập cải tiến tình
tình của mình và tấn tới trong cuộc sống kitô. Năm 1241 sau một cuộc hành hương dài
tới Santiago di Compostella
cùng với các thành phần khác trong gia đình, hai
vợ chồng dự định sống tiết dục, nhưng ít lâu sau thống đốc Ulf kết thúc cuộc đời dương
thế trong an bình tại một đan viện, nơi ông đã lui vào sống ẩn dật.
Tiếp tục
bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói giai đoạn thứ nhất trong cuộc sống của thánh nữ Brigida
giúp chúng ta trân qúy điều có thể gọi là ”linh đạo hôn nhân”: các cặp vợ chồng kitô
có thể cùng nhau đi trên con đường của sự thánh thiện, được trợ giúp bởi ơn thánh
của Bí Tích Hôn Phối. Rất nhiều khi, như đã xảy ra trong cuộc sống của thánh nữ Brigida,
với sự nhậy cảm tôn giáo, lòng tế nhị và dịu hiền của mình, chính người phụ nữ thành
công trong việc cùng chồng bước đi trên con đường đức tin. Cả ngày nay nữa cũng có
biết bao phụ nữ soi sáng cuộc sống gia đình với chứng tá kitô của họ. Ước chi Thần
Khí của Chúa có thể khơi dậy sự thánh thiện của các căp vợ chồng kitô, để cho thế
giới thấy vẻ đẹp của hôn nhân sống theo các gia trị của Tin Mừng: yêu thương, hiền
dịu, trợ giúp lẫn nhau, sinh con cái phong phú và giáo dục chúng, cởi mở và liên đới
với thế giới, tham dự vào cuộc sống Giáo Hội.
Giai đoạn hai trong cuộc sóng
của thánh Brigida là cuộc sống góa bụa. Thánh nữ khước từ tái lập gia đình để đào
sâu sư kết hiệp với Chúa qua việc cầu nguyện, hãm mình và làm các công tác bác ái.
Cả các góa phụ cũng có thể tìm thấy nơi thánh nữ một mẫu gương để noi theo. Thật thế,
sau khi chồng qua đời, Brigida đã phân phát của cải cho người nghèo, và tuy không
bao giờ trở thành tu sĩ, thánh nhân đến sống gần một đan viện Xitô tại Alvastra. Chính
tại đây người nhận được các mạc khải của Thiên Chúa cho tới cuối đời. Chúng được thánh
nữ đọc cho các vị giải tội thư ký viết, và được dịch từ tiếng Thụy điển sang tiếng
Latinh, gộp lại thành 8 cuốn tựa đề là ”Các mặc khải”. Thêm vào đó là một phần phụ
khác gọi là ”Các mạc khải phụ”.
Chúng có nội dung rất khác nhau: nhiều khi
mạc khải được trình bầy dưới hình thức các cuộc đối thoại giữa Ba Ngôi Thiên Chúa,
Đức Trinh Nữ, các thánh, cả ma qủy nữa và có sự tham dự của thánh nữ. Nhiều lần khác
đó là trình thuật một thị kiến đặc biệt, rồi nhiều lần khác nữa là những gì Đức Trinh
Nữ Maria mạc khải cho thánh nữ liên quan tới cuộc sống và các mầu nhiệm của Chúa Kitô.
Giá trị của chúng được Giáo Hội coi như là kinh nghiệm riêng của thánh nữ.
Các mạc khải này bao gồm nhiều đề tài quan trọng như Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô, mà
thánh nữ đặc biệt tôn kính và chiêm ngắm nơi đó tình yêu thương vô biên của Thiên
Chúa đối với loài người. Thành nữ táo bạo đặt trên môi miệng Chúa các lời cảm động
sau đây: ”Ôi các bạn của Ta, Ta yêu thương các chiên của Ta tới độ, nếu có thể, Ta
muốn chết biết bao nhiêu lần khác nữa cho từng con chiên một, với cùng cái chết mà
Ta đã chịu để cứu rỗi tất cả” (Revelationes, Libro I, c.59). Chức làm mẹ khổ đau của
Đức Maria cũng là đề tài hay được nói tới trong Các Mạc Khải. Thánh nữ ý thức được
đó là một ơn lớn lao Thiên Chúa ban cho mình một cách đặc tuyển để xây dựng Giáo Hội.
Đức Thánh Cha khai triển điểm này như sau:
Chính vì lý do đó, không ít các
mạc khải được tỏ lộ cho thánh nữ dưới hình thức các lời đe dọa nghiêm nghị đối với
các tín hữu thời bấy giờ, bao gồm cả các giới chức tôn giáo và chính trị, để cho họ
biết sống xứng đáng cuộc sống kitô. Nhưng thánh nữ luôn làm điều này với một thái
độ tôn trọng và trung thành hoàn toàn với Huấn Quyền Giáo Hội, đặc biệt là đối với
Người Kế Vị Tông Đồ Phêrô.
Năm 1349 Brigida vĩnh viễn rời Thụy điển để hành
hương về Roma, không chỉ để tham dự Năm Thánh 1350 mà cũng ước mong Đức Giáo Hoàng
chuẩn y Luật một Dòng gọi là dòng Cứu Thế Thánh, mà thánh nữ muốn thành lập cho cả
các nam đan sĩ và nữ đan sĩ, dưới sự hướng dẫn của một Viện mẫu. Chúng ta không nên
ngạc nhiên vì vào thời Trung Cổ có các dòng loại này được thành lập. Trong tuyền thống
kitô phẩm giá riêng của nữ giới đựơc thừa nhận và luôn luôn noi gương Đức Maria, Nữ
Vương các Tông Đồ, họ có chỗ đứng trong Giáo Hội, tuy không trùng hợp với chức linh
mục thừa tác, nhưng cũng quan trọng đối với sự trưởng thành thiêng liêng của cộng
đồng Dân Chúa. Ngoài ra sự cộng tác giữa các người nam nữ sống đời thánh hiến có tầm
quan trọng lớn đối với thế giới ngày nay.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài
huấn dụ: tại Roma, cùng với con gái là Karin, thánh nữ Brigida tận hiến cuộc sống
cho công tác tông đồ và đời cầu nguyện. Thánh nữ hành hương tới các đền thành khác
nhau của Italia, đặc biệt là Assisi, quê hương của thánh Phanxicô, mà thánh nữ rất
sùng kính. Sau cùng, năm 1371 thánh nữ cùng với các con cái thiêng liêng hành hương
Thánh Địa. Trong các năm đó các Đức Giáo Hoàng sống tại Avignon bên Pháp, xa Roma.
Thánh Brigida thỉnh cầu các vị về Roma, Kinh thành muôn thuở nơi có ngai tòa của thánh
Phêrô. Thánh nữ qua đời năm 1373 trước khi Đức Giáo Hoàng Gregorio XI vĩnh viễn trở
về Roma. Người được chôn cất tạm trong nhà thờ thánh Lorenzo in Panisperna, nhưng
năm 1374 các con của thánh nữ là Birger và Karin đem thi hài thánh nữ về về chôn cất
tại đan viện Vadstena, là nơi có trụ sởẹ của dòng do thánh nữ thành lập. Năm 1391
Đức Giáo Hoàng Bonifacio IX tôn phong hiển thánh cho thánh nữ.
Sự thánh thiện
và nhiều ơn cũng như kinh nghiệm đã khiến cho thánh nữ Brigida trở thành một gương
mặt trổi vượt trong lịch sử Âu châu. Khi tuyên bố thánh nữ đồng bổn mạng Âu châu,
Đức Gioan Phaolô II cầu mong rằng thánh nữ Brigida, sống vào thế kỷ XIV khi Kitô giáo
chưa chia rẽ, có thể bầu cử một cách hữu hiệu bên tòa Chúa cho ơn hiệp nhất trọn vẹn
giữa các tín hữu kitô. Đó cũng là ước mong của chúng ta. Anh chị em thân mến, chúng
ta hãy khẩn nài sự chuyển cầu của thánh nữ Brigida nước Thụy Điển, môn đệ trung thành
của Thiên Chúa, để cho Âu châu luôn biết dưỡng nuôi chính mình từ các gốc rễ kitô
của mình.
Đức Thánh Cha đã chào tín hữu bằng các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức,
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Croat, Slovac, Hungari, Nga, Lituani, Ucraine, và
Ý. Ngài cũng đã kệu gọi cộng đồng quốc tế liên đới với các nạn nhân núi lửa và sóng
thần tại Indonesia, cũng như với các nạn nhân lũ lụt tại Benin bên Phi châu. Sau cùng
ngài cất kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.