Một số nhận định của Đức Hồng Y Peter Erdoe, Tổng Giám Mục Budapest,
kiêm Chủ tịch Liên Hội Đồng Giám Mục Âu châu, về sự kiện đức tin tái sinh sau khi
bức tường Berlin sụp đổ.
Trong các ngày từ 22 tới 28 tháng 8 này, Đại hội
tình bạn các dân tộc lần thứ 31 sẽ tiến hành tại Rimini, Trung Italia, về đề tài ”Bản
chất thúc đẩy chúng ta ước muốn những điều cao cả là con tim”. Mục đích của đại hội
lần này là bảo vệ tính chất nhân bản của con người và xã hội, chống lại nền văn hóa
có khuynh hướng xóa bỏ nhân bản tính, và phổ biến sự thiếu sót và hư vô trong cuộc
sống xã hội ngày nay.
Thực ra, bản chất con người là khát khao những điều
cao cả. Động lực mọi hành động của con người là ước mong điều cao cả, đòi hỏi điều
vô tận. Con người có tương quan với sự vô tận. Sự căng thẳng đó là nét không thể nhầm
lẫn được của con người, là tia lửa của mọi hành động: từ việc làm cho tới gia đình,
từ sự tìm kiếm khoa học cho tới hoạt động chính trị, từ nghệ thuật cho tới việc đương
đầu với các nhu cầu thường ngày.
Thánh lễ khai mạc sẽ đo Đức cha Francesco
Lambiasi, Giám Mục Rimini, chủ sự lúc 11 giờ sáng Chúa Nhật 22-8-2010. Trong số hàng
chục ngàn người tham dự sẽ có nhiều vị lãnh đạo tôn giáo, các giới chức chính trị,
kinh tế và xã hội Italia, Âu châu và quốc tế. Trong số các vị lãnh đạo tôn giáo tham
dự và thuyết trình tại đại hội cũng có Đức Tổng Giám Mục Filaret của Chính Thống Nga
và Đức Hồng Y Peter Erdoe, Tổng Giám Mục Budapest, kiêm Chủ tịch Liên Hội Đồng Giám
Mục Âu châu. Trong các ngày đại hội ngoài các buổi cử hành phụng vụ và chia sẻ kinh
nghiệm đức tin, còn có hàng chục buổi diễn thuyết về các đề tài tôn giáo, chính trị,
kinh tế, thương mại, xã hội và văn hóa.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy
vị và các bạn một số nhận định của Đức Hồng Y Peter Erdoe về sự kiện đức tin kitô
tái sinh tại Đông Âu, sau khi bức tường Berlin sụp đổ hồi tháng 12 năm 1989.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y Erdoe, từ vài năm nay Đức Hồng Y
là Chủ tịch Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Âu châu, gọi tắt là CCEE.
Khi nói tới Âu châu là chúng ta nói tới điều gì thưa Đức
Hồng Y? Trong các năm qua Đức Hồng Y đã trông thấy gì
và đã có các nhận xét nào?
Đáp: Với từ ”Âu châu”
người ta hiểu nhiều điều lắm. Đối với một số người thì đó là ”Tây Phương Kitô”, đối
với người khác thì nó là tất cả vùng đất mang ảnh hưởng của nền văn hóa hy lạp roma,
trong hình thái la tinh cũng như trong hình thái bisantin, và như thế nó bao gồm cả
châu Mỹ, Australia hay cả Nga nữa. Cũng có không ít người nói tới Âu châu chính trị,
và trong trường hợp này thì đó là Liên Hiệp Âu châu... Đối với nền thần học công giáo,
tất cả các nền văn hóa của nhân loại đều đáng qúy trọng, bởi vì chúng nảy sinh từ
ý muốn tạo dựng của Thiên Chúa, như là sự phong phú của thiên nhiên, nhưng đặc biệt
chúng cũng diễn tả một khía cạnh của phẩm giá con người nữa. Trong mấy ngàn năm qua
Tin Mừng của Chúa Kitô đã không phá hủy sự khác biệt và căn tính văn hóa của các dân
tộc âu châu, nhưng đã soi sáng cho gia tài của chúng, và thăng tiến sự phát triển
của từng dân tộc. Đôi khi tôi khâm phục ngắm nhìn cuộc sống của các cộng đoàn công
giáo tại Á châu hay Phi châu. Và tôi xác tín rằng giữa Tin Mừng và các nền văn hóa
này sẽ nảy sinh ra các điều kỳ diệu mới cho thiện ích của Giáo Hội và toàn nhân loại.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, bức tường Berlin đã
sụp đổ cách đây hơn 20 năm rồi. Bây giờ còn có thể nói
về một Đông âu và một Tây Âu nữa không?
Đáp: Đã,
đang và sẽ có thể nói về một Đông Âu và một Tây Âu, tuy cả hai đều là một Âu châu.
Một đàng có sự kiện hoàng đế Diocleziano chia đế quốc Roma thành hai vùng Đông Tây,
cả khi các chi tiết trong cơ cấu hành chánh không phát xuất từ cuộc cải cách này của
hoàng đế, thực tại văn hóa đông tây vẫn sống động trong đại lục này. Phần latinh và
phần bisantin của Âu châu cho tới nay vẫn cho thấy các khác biệt. Hiểu biết và đánh
giá cao các khác biệt ấy vẫn là một nhiệm vụ hiện nay. Trong thời chiến tranh vùng
Balcan có người đã nêu vấn nạn liên quan tới các lợi lộc trong các xung khắc phức
tạp này. Và một người Hungari biết lịch sử một chút đã trả lời rằng: ”Như đã luôn
luôn xảy ra, đây là việc xác định ranh giới chính xác đã do hoàng đế Diocleziano xác
định”.
Dĩ nhiên trong hậu bán thế kỷ XX, Đông Âu và Tây Âu châu đã có một
ý nghĩa khác: đó là ý nghĩa chính trị ám chỉ hai vùng ảnh hưởng, ảnh hưởng của Liên
xô bên Đông Âu và ảnh hưởng của Hoa Kỳ bên Tây Âu. Tạ ơn Thiên Chúa, lằn ranh giới
này, hay bức màn sắt, này giờ đây không hiện hữu nữa. Nhưng vẫn có các vùng văn hóa
và kinh tế chứng minh cho thấy các khác biệt tiêu biểu: có các quốc gia thành lập
Liên Hiệp Âu châu, có chân trong việc thiết định các luật chơi và các đặc thái của
Liên Hiệp, cũng như xác định diện mạo của nó, cả khi một cách không đồng đều như nhau.
Thế rồi, còn có các thành viên mới, đặc biệt là các nước cựu cộng sản, phải tùy thuộc
vào ”một cái gì đó”, vì sự cần thiết lịch sử, kinh tế hay địa lý chính trị, sau khi
các đoàn quân xô viết rút lui khỏi lãnh thổ của họ. Trong các quốc gia này, vì dư
luận công cộng hay vì thứ tự thời gian, việc tùy thuộc khối NATO hay Minh Ước Bắc
Đại Tây Dương, biểu tượng cho đặc tính tây âu hay sự ổn định của việc tùy thuộc của
vùng này vào phần lục địa, mà người dân các nước Đông Âu cho là hạnh phúc hơn, là
điều quan trọng đối với các dân tộc Đông Âu.
Ngoại trừ qúa khứ ra, giờ đây
các nước Đông Âu có các tương quan mới với nước Nga không còn là xô viết nữa. Đó là
các tương quan kinh tế, thông cảm, với các yếu tố chung của cung cách sống; một vài
tương đồng trong các vấn đề xã hội như tình trạng trống rỗng ý thức hệ và luân lý,
sau khi từ bỏ ý thức hệ mác xít; việc cần thiết sơ đẳng của sự thức tỉnh văn hóa có
thể hệ tại nơi việc đánh giá cao các ngôn ngữ quốc gia; các truyền thống văn chương;
các truyền thống gia chánh; các truyền thống nghệ thuật; cũng như hệ tại nơi việc
thức tỉnh của ý thức về lịch sử riêng. Nó cũng hệ tại nhu cầu hiểu và tích cực xây
dựng qúa khứ gần và xa của mình. Bên cạnh đó còn có nguy cơ của sự bất ổn trong cuộc
sống xã hội và kinh tế, vì nạn gian tham hối lộ và vô chính phủ có thể xảy ra, nếu
Nhà Nước tuân giữ một cách giáo điều các nguyên tắc của một khuynh hướng tự do cực
đoan, xa cách với thực tại cụ thể của các xã hội này.
Hỏi: Trên bình diện
tương quan giữa Giáo Hội công giáo và Giáo Hội chính thống, lộ trình hiện nay
ra sao thưa Đức Hồng Y?
Đáp: Sau những gì trình bầy
trên đây, chúng tôi cảm thấy đặc biệt bị lôi cuốn bước vào trong cuộc đối thoại với
Giáo Hội chính thống. Tuy nhiên, cả trong dấn thân này nữa, cũng không được để cho
việc đối thoại nảy sinh từ một quan điểm thơ mộng, thiếu thực tế. Trên thực tế, chúng
tôi phải vui mừng trước sự kiện các Giáo Hội chính thống khác nhau bên Đông Âu, đã
từng bị đánh phá phá một cách tàn bạo và bị bách hại trong bao nhiêu thập niên, giờ
đây đang tìm lại một phẩm chất cao về văn hóa nghệ thuật và thần học kitô, cũng như
một tương quan có cơ cấu với cuộc sống của dân tộc mình.
Cần phải đánh giá
cao hay tưởng tượng xem nó quan trọng chừng nào đối với các linh mục hay các Giám
Mục chính thống và cả đối với các tu sĩ và giáo dân nam nữ nữa, sự chính thống của
đức tin, thường khi đã là giá trị duy nhất mà họ còn duy trì được trong các tình trạng
nhiều khi rất là nhục nhã. Đây không chỉ là điều liên quan tới các vị tử đạo và các
tín hữu bị cầm tù mà thôi, mà nó liên quan tới cả những ai có thể thi hành nhiệm vụ
của mình một cách công khai.
Trong nhận thức của nhiều người, giá trị có thể
biện minh cho nhiều điều, đó là làm sao duy trì được đức tin của mình. Đây không luôn
luôn là sự hữu hiệu mục vụ, là điều về lâu về dài đã không thể làm được, mà là nội
dung của đức tin. Chính vì thế mà khi Đức Thánh Cha Biển Đức XVI được bầu làm Người
Kế Vị Thánh Phêrô, niềm vui đã bùng nổ trong thế giới chính thống. Như thế, có một
mức độ khác trong cuộc đối thoại với Giáo Hội chính thống: đó là mức độ của chính
đức tin. Và trong lãnh vực này, sự tương đồng giữa công giáo và chính thống lớn lao
đến độ chúng ta cảm thấy đau đớn vì sự thiếu hiệp nhất giữa hai bên. Đây là điều rất
hiển nhiên tại những nơi đâu các kitô hữu không chia sẻ cùng số phận trong bối cảnh
văn hóa không kitô. Tuy nhiên, cũng có một mức độ khiêm tốn hơn của cuộc đối thoại,
đó là việc thăng tiến các giá trị luân lý kitô và giáo huấn xã hội. Hiển nhiên là
các Hội Đồng Giám Mục Âu châu là các cơ cấu chuyên môn và được mời gọi dấn thân trong
cuộc đối thoại và cộng tác, nhất là trong việc cộng tác với Giáo Hội chính thống.
Các hiệu qủa cụ thể của đức tin chung thật ra rất giống nhau, và thường dẫn đưa các
Giáo Hội tới cùng một lập trường đối với các vấn đề của cuộc sống xã hội ngày nay.
Chính vì thế đã nảy sinh ra Diễn đàn công giáo chính thống âu châu, và nó bắt đầu
đem lại các hoa trái đầu tiên, thí dụ như trong lập trường rõ ràng liên quan tới gia
đình.
Hỏi: Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y có nhận
xét gì về đại hội tình bạn các dân tộc diễn ra tại Rimini, mà
Đức Hồng Y cũng sẽ tham dự cùng với Đức Tổng Giám Mục Filaret
Giám Mục giáo phận Minsk của Giáo Hội chính thống Nga? Một người dân
âu châu ngày nay có thể tin nơi Chúa Giêsu hay không?
Đáp:
Tôi rất danh dự được nói chuyện với Đức Tổng Giám Mục Filaret của giáo phận Minsk,
mà tôi rất qúy trọng. Tựa đề của cuộc đối thoại nhắc cho tôi nhớ đến thời tôi còn
trẻ. Hồi đó người ta dậy chúng tôi rằng tôn giáo là một chậm tiến, là ngu dân. Cũng
thế, người ta có thể nghĩ rằng một người dân âu châu có học ngày nay không thể là
một tín hữu kitô. Tôi thì tôi có xác tín ngược lại. Chính tính cách phức tạp của các
vấn đề thời đại chúng ta, sự hoạt động không hiệu qủa của guồng máy xã hội đòi buộc
phải có một mẫu số chung tối thiểu liên quan tới việc đặt để loài người trong vũ trụ
này, liên quan tới ý nghĩa và giá trị của toàn lịch sử nhân loại và của xã hội. Chính
sự kiện này khiến cho một suy tư về các vấn đề nền tảng của quan niệm về cuộc sống
trở thành cần thiết. Như vậy, theo tôi, một người âu châu tân tiến ngày nay không
thể không đương đầu ít nhất là với vấn đề về Thiên Chúa, về Đức Giêsu Kitô và Tin
Mừng của Người.