Trong bài phát lần trước,
chúng ta cùng khởi đầu lời kinh “Tán Dương”- Magnificat của Mẹ Maria với lời ca tụng
của bản thân khi nghiệm thấy Chúa thực hiện nơi mình những kỳ công và quà tặng lớn
lao là được mời gọi làm mẹ Con Thiên Chúa Làm Người. Những câu tiếp theo của lời kinh
chúc tụng tiếp tục đưa chúng ta đến khía cạnh khác của tâm tình ca tụng tạ ơn – nhận
ra tình thương đặc biệt của Chúa đối với người khiêm nhường và kính sợ Chúa:
Đời
nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Người
đã giơ tay biểu dương sức mạnh, phân tán phường lòng trí kiêu căng. Người
đã hạ bệ những ai quyền thế, và nâng cao những kẻ khiêm nhường. Ai
đói nghèo Chúa ban của đầy dư, kẻ giàu có Người đuổi về tay trắng. (Lc
1, 50-53)
Kinh nghiệm bản thân của Đức Trinh Nữ Maria giúp Mẹ nghiệm thấy đường
lối chính trực ngàn đời của Chúa là luôn quan tâm đến những ai kiếm tìm Ngài với lòng
khiêm nhường. Mẹ đã thấy cánh tay thần lực của Đức Chúa thực hiện điều lạ lùng nơi
Mẹ. Giữa muôn người nữ, Mẹ được nâng lên làm Mẹ Thiên Chúa; ngay nơi nhà quê hẻo lánh,
Chúa cho Mẹ bừng sáng bởi vinh quang của Đấng Tối Cao; trong thân phận nữ tỳ đơn nghèo,
Chúa tặng ban cho Mẹ món qua vô giá là Chúa Giêsu.
Đây là cung cánh hành xử
của Chúa, là đường lối chính trực của Ngài từ đời nọ tới đời kia. Người thương xót
ai có lòng kính sợ Chúa; những kẻ kiêu căng, Ngài phân tán; ai quyền thế, Người hạ
bệ; người giàu có thì về tay trắng, còn kẻ nghèo hèn được ban của đầy dư. Thiên Chúa
nâng cao người khiêm nhường để người kiêu căng nhận ra chính mình hầu từ bỏ con đường
bất chính. Xác tín về đường lối Chúa là điều Mẹ Maria đã thấy, đã kinh nghiệm và cất
lên lời ca tụng. Cách Thiên Chúa đến với người hèn yếu là bảo vệ họ, giải cứu họ
khỏi tay kẻ thù và nuôi dưỡng họ trong cảnh an bình. Lời ca tụng của Mẹ Maria không
xa lạ vì những lời ca tương tự đã từng được cất lên xuyên suốt dòng lịch sử. Đó là
lời ca tụng của người lâm cảnh khốn khó, họ kêu cầu Chúa và Ngài đáp lại, giải thoát
họ khỏi cơn nguy khốn:
Con yêu mến Ngài, lạy CHÚA là sức mạnh của con; lạy
CHÚA là núi đá, là thành luỹ, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con
thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng,
là thành trì bảo vệ. Tôi kêu cầu CHÚA là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và
tôi được cứu thoát khỏi quân thù. (Tv 18, 2-4)
Tác giả Thánh Vịnh, người
được giải cứu mô tả kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện. Ngài như núi đá, như thành luỹ
để những ai tin cậy Chúa có nơi ẩn náu. Ngài bảo vệ họ như khiên mộc an toàn và giải
thoát họ khỏi tay quân thù. Lời ca tụng cũng là lời xác tín bày tỏ lòng yêu mến Chúa
vì người đã giơ tay biểu dương sức mạnh và cho họ được an bình. Chẳng còn niềm vui
nào hơn là niềm vui của người ở trong cảnh cùng khốn, kêu cứu và được đáp lời, người
gặp hoạn nạn mà được cứu thoát, người tưởng như đã chết mà được cứu sống.
Lời
ca tụng của tác giả thánh vịnh phản ảnh lời ca tụng của toàn bộ dân tộc, dân tộc bước
theo Chúa. Nói rộng hơn, đó là lời ca tụng của những ai tin vào Chúa, và do đó còn
là của tất cả chúng ta. Khác biệt về không gian và thời gian không làm cho lời ca
tụng vụt tắt nhưng những tương đồng giữa chúng ta và tác giả thánh vịnh giúp lời ca
tiếp tục vang xa. Lời ca tụng của Mẹ Maria khởi đi từ truyền thống và kho tàng thiêng
liêng của dân tộc. Kinh nghiệm ấy tiếp tục xảy đến cho chúng ta ngày nay. Và giữa
những gian nan khốn khó, chúng ta vẫn thấy cánh tay sức mạnh của Chúa thực hiện những
việc lạ lùng. Cùng nhau cất lên lời ca tụng, chúng ta trở nên gần gụi với Mẹ Maria,
với tác giả Thánh Vịnh và trên hết là bởi tất cả chúng ta được Thiên Chúa thương xót
và yêu mến.
Ước gì cùng với Mẹ Maria, chúng ta tiếp tục ca tụng Chúa bằng cả
con người và cuộc sống, vì chính ngang qua tất cả mà Chúa đến với chúng ta. Ca tụng
Chúa không là của riêng ai nhưng một khi cất lời ca tụng chúng ta được hiệp nhất với
nhau.