VỚI BỘ ÁO ĐỨC BÀ TÔI SẴN SÀNG CHẾT VÌ ĐẠO CÔNG GIÁO
... Sáng ngày 20-7-1900, làng Công Giáo Châu-Gia-Hà thuộc Tần Huyện, tỉnh Hà
Bắc (Trung Quốc) bị thất thủ. Bọn giặc Quyền Phỉ tràn vào lục soát các gia đình Công
Giáo. Họ giết chết các tín hữu. Một số đông chạy đến ẩn trú trong nhà thờ. Tại đây
có Cha Sở Léon Ignace Mangin (1857-1900), Thừa Sai dòng Tên người Pháp, và Cha Paul
Denn (1847-1900) cũng dòng Tên. Hai Cha nhất quyết cùng sống cùng chết với đoàn chiên.
Các ngài can đảm khuyến khích các tín hữu Công Giáo bình tĩnh và sẵn sàng chịu chết
vì Đức Tin.
Khi quân lính tiến vào nhà thờ, họ giơ súng bắn xối xả vào đám
tín hữu đang quỳ cầu nguyện trước Nhà Tạm, trước Thánh Giá Đức Chúa GIÊSU KITÔ và
trước hai vị Chủ Chăn. Trong giây phút hỗn độn và hãi hùng, một số thanh niên và đàn
ông tìm cách thoát khỏi cơn sát hại. Họ ùa vào Phòng Thánh, phóng mình qua cửa sổ
và chạy trốn. Đợt chạy đầu thoát nhưng đến đợt thứ hai thì bị bọn lính chặn lại. Lính
đứng sẵn dưới đất, khi một thanh niên vừa phóng qua cửa sổ, chạm chân xuống đất, họ
giơ súng bắn ngã gục. Sau cùng, vì mệt và vì chán ngấy với hành động sát hại dã man,
bọn lính bắt khoảng 50 tín hữu đem nộp cho toán quân của chính phủ đang chiếm đóng
ở làng Công Giáo gần đó.
Trong số 50 tín hữu Công Giáo bị bắt có thanh niên
Phêrô Châu Nhật Tân (1881-1900). Châu Nhật Tân là con trai thứ hai của ông
Châu Vũ Đình. Anh Châu là học trò Các Linh Mục dòng Tên. Anh nổi tiếng gương mẫu về
tinh thần kỷ luật và về các sinh hoạt cộng đoàn. Anh còn là tín hữu đạo đức, thâm
trầm và được mọi người mến chuộng.
Khi tướng Trần Tắc Lâm nhìn thấy anh Châu
Nhật Tân đi chân không, áo quần tơi tả và khuôn mặt ướt đẫm nước mắt, ông động lòng
cảm thương và nhất định cứu sống anh. Tướng Trần Tắc Lâm thừa lệnh tổng trấn Lý Bình
Hằng của tỉnh Sơn Đông đến giải quyết vấn đề các tín hữu Công Giáo. Ông gọi riêng
anh Châu và dùng lời lẽ vừa nhân ái vừa đượm đầy tình phụ tử để thuyết phục: -
Hãy dứt khoát một lần từ bỏ Đạo Công Giáo, em sẽ được tự do.
Anh Châu vừa
mạnh mẽ trả lời KHÔNG! KHÔNG! vừa ngoảnh mặt đi nơi khác như lộ vẻ kinh tởm.
Tướng Trần vẫn tiếp tục dụ dỗ: - Em chỉ cần nói một lời thôi, tôi sẽ cứu em khỏi
chết.
Anh Châu cương quyết: - Không! Không! em không nói!
Tướng
Trần nài nỉ: - Thôi em không cần nói chi hết. Chỉ cần làm một dấu hiệu chứng tỏ
em chối Đạo là đủ. Nếu không, tôi sẽ ra lệnh bắn em!
Những người không Công
Giáo có mặt tại buổi đối thoại hôm đó, sau này làm chứng rằng cuộc dụ dỗ và chiến
đấu giữa tướng Trần và anh Châu kéo dài rất lâu. Sau cùng, để dứt khoát trước mọi
dụ dỗ của tướng Trần, anh Châu thẳng thắn nói: - Thưa ngài, ngài đâu có
thể chối bỏ Cha Mẹ ngài. Em đây cũng vậy.
Em không thể nào chối bỏ THIÊN CHÚA em kính yêu và tôn thờ.
Tức giận
vì không thuyết phục được chàng thanh niên Công Giáo can đảm, ông tướng hét lớn:
- Hãy xéo đi, mày thực là tên ngu xuẩn!
Và ông ra lệnh bắn chết anh Phêrô
Châu Nhật Tân. Năm đó anh vừa đúng 19 tuổi xuân.
... Vị tử vì đạo thứ hai
là Chị Rosa Phạm Huệ (1855-1900), trinh nữ Trung Hoa. Chị chào đời trong một
gia đình Công Giáo tại làng Phạm, tỉnh Hà Bắc. Chị là giáo viên nhân từ, đạo đức,
khiêm tốn và luôn sống thanh đạm.
Khi bọn giặc Quyền Phỉ nổi lên giết chết
các tín hữu Công Giáo Trung Hoa, Chị Rosa Phạm Huệ đang dạy giáo lý cho các trẻ em
tại làng Vương-Gia-Trang. Tháng 7 năm 1900, thấy tình thế bắt Đạo mỗi ngày một dữ
dội, Chị Huệ đóng cửa lớp và trở về quê quán ở Trương-Não-Gia. Từ đó, Chị lang thang
nay đây mai đó, tìm nơi ẩn trốn.
Tuy nhiên, dầu trốn ẩn, tận nơi sâu kín tâm
lòng, Chị vẫn ao ước có ngày được diễm phúc tuyên xưng Đức Tin Công Giáo. Chính bạn
gái của Chị làm chứng như thế trong lời khai cho án tôn phong chân phước cho Chị.
Ngày 15-8-1900, cả hai cùng tham dự Thánh Lễ mừng kính Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Chị
Phạm Huệ đã thức suốt đêm hôm đó để cầu nguyện.
Sáng ngày 16-8, bọn giặc Quyền
Phỉ đột nhiên ồ ạt tấn công làng Trương Não Gia, cho đến giờ phút ấy vẫn tạm yên,
không bị quân lính quấy nhiễu. Chúng bắt ngay em trai Chị Huệ và một tín hữu Công
Giáo khác. Nhưng thật ra bọn giặc chỉ chủ ý tìm Chị Phạm Huệ, một trinh nữ Công Giáo
quá nổi tiếng về lòng đạo đức, tinh thần bác ái và nhất là lòng nhiệt thành giảng
dạy giáo lý cho các trẻ em.
Binh lính hùng hổ lục soát mọi hang cùng ngõ hẻm
để tìm cho ra tông tích Chị Huệ, nhưng vô hiệu. Thấy vậy, ba tên du đãng ngoại giáo
trong làng nhập cuộc để tìm cho ra chỗ trú của Chị Huệ. Sau cùng, ba tên này khám
phá ra Chị đang ẩn nơi bờ đê của làng. Chúng nói với Chị: - Chị an tâm, bọn giặc
đi rồi, tụi tôi sẽ đưa Chị về làng an toàn.
Chị Huệ hiểu ngay chúng chỉ giả
vờ giúp Chị để tóm trọn số tiền Chị đang mang trong mình. Chị Huệ nhất định từ chối
không chịu đi theo 3 tên côn đồ. Thấy vô hiệu, chúng đổi chiến thuật, hô lớn tiếng,
gọi bọn lính Quyền Phỉ đến.
Bọn lính quá mừng, chạy ào tới hỏi: - Chị
có phải là tín hữu Công Giáo không?
Chị Rosa Phạm Huệ trả lời: - Chắc
chắn rồi, tôi là người Công Giáo!
Bọn lính dùng dao đâm Chị một nhát và hỏi
tiếp: - Chị có chịu bỏ Đạo không?
Chị bình tĩnh đáp: - Không!
Bọn lính dùng dao rạch một đường nơi mông Chị, rồi lập lại câu hỏi, Chị cũng lập y
lại: ”KHÔNG”. Bọn lính xẻo một tai của Chị nhưng Chị Huệ vẫn can đảm nói:
- Không, tôi không chối Đạo! Tôi là nữ tử Thiên Hoàng,
tôi không chối bỏ Ngài!
Rồi Chị giơ cao Bộ Áo Đức Bà Camêlô đang mang
trong mình và nói: - Với Bộ Áo Đức Bà tôi sẵn sàng chết vì Đạo
Công Giáo!
Bọn lính đâm tiếp mấy lát dao nữa rồi liệng Chị xuống sông.
Chị Rosa Phạm Huệ dùng chút sức còn lại bơi vào bờ, nhưng rồi kiệt sức, Chị buông
mình cho dòng nước mang đi.
... Đức Chúa GIÊSU ngước
mắt lên nhìn các môn đệ và nói: ”Phúc cho anh chị em là những kẻ nghèo
khó, vì Nước THIÊN CHÚA là của anh chị em. Phúc cho anh chị em là những
kẻ bây giờ đang phải đói, vì THIÊN CHÚA sẽ cho anh chị
em được no lòng. Phúc cho anh chị em là những kẻ bây giờ đang phải
khóc, vì anh chị em sẽ được vui cười. Phúc cho anh chị
em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ,
sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh chị em
hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho
anh chị em ở trên Trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng
bị cha ông họ đối xử như thế” (Luca 6,20-23).
(Celestino Testore, S.I, ”Sangue e Palme e Corone sul Fiume Giallo”, Curia Generalizia
della Compagnia di Gesù, 1955)