Tình hình sống đạo tại Bỉ và một vài vấn đề của Giáo Hội hoàn vũ
Phỏng vấn Đức Hồng Y Godfried Daneels, Tổng Giám Mục Malines Bruxelles,
về tình hình sống đạo tại Bỉ
Trong số các chủ chăn của Giáo Hội công giáo
tại Bỉ Đức Hồng Y Godfried Daneels, Tổng Giám Mục giáo phận Malines-Bruxelles được
coi là một cây đại thụ.
Đức Hồng Y Daneels sinh năm 1933, thụ phong linh mục
năm 1957. Sau khi theo học tại Roma cha Daneels được chỉ định làm linh hướng cho các
đại chủng sinh tại đại chủng viện Bruges khi mới 26 tuổi. Năm 1977 ngài được chỉ định
làm Giám Mục giáo phận Anvers và hai năm sau được chỉ định làm Tổng Giám Mục giáo
phận Malines-Bruxelles. Năm nay Đức Hồng Y đang chờ Tòa Thánh chỉ định người kế vị.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị một số nhận định của Đức Hồng Y về tình hình
Giáo Hội công giáo tại Bỉ và một vài vấn đề của Giáo Hội hoàn vũ.
Hỏi:
Thưa Đức Hồng Y, Đức Hồng Y đã là Tổng Giám Mục
giáo phận Malines-Bruxelles trong 30 năm trời. Đây là một
thời gian kỷ lục. Đức Hồng Y có chấp nhận một sự thay đổi
nào khác không, chẳng hạn như sang làm việc tại Roma như nhiều
Tổng Giám Mục khác trong thời gian qua?
Đáp: Nếu Đức Thánh
Cha yêu cầu, thì tôi sẽ thi hành ý muốn của Đức Thánh Cha. Không có vấn đề gì. Nhưng
tôi nghĩ sự ổn định trong một giáo phận là điều rất quan trọng. Thay đổi giáo phận
mỗi 4, 5, 10 năm là điều người ta làm ít nhiều bên Pháp: một Giám Mục làm chủ chăn
một giáo phận nhỏ vài năm, rồi sau đó coi giáo phận ngày càng lớn hơn. Tôi cũng đã
thay đổi giáo phận, nhưng tôi nghĩ ở trong một giáo phận một thời gian dài nào đó
là điều quan trọng. Sự kiện tôi đã chỉ làm Giám Mục giáo phận Anvers trong vòng 2
năm đối với tôi và đối với tín hữu đã hơi là một tước đoạt.
Hỏi:
Năm 2009 Đức Hồng Y đã có thể cử hành các lễ nghi mừng kỷ niệm
450 năm thành lập giáo phận Malines-Bruxelles, như thế thời gian
làm chủ chăn tại đây đã có thể giao thoa với lịch sử dài
của Giáo Hội Bỉ. Trong các diễn văn dịp mừng lễ này Đức
Hồng Y đã tán đồng quyết định của
Công Đồng Trento thành lập các giáo phận nhỏ hơn, có đúng thế
không?
Đáp: Vâng. Công Đồng Trento đã lựa chọn việc giảm
diện tích các giáo phận và thành lập các giáo phận nhỏ hơn, để các chủ chăn có thể
gần gũi với tín hữu hơn. Tổng giáo phận Malines Bruxelles vẫn còn khá lớn: trước kia
Anvers cũng thuộc giáo phận này. Đặc biệt trong các tình thế hiện nay khiến cho Truyền
Thống bị phân tán, tôi thấy sự kiện chủ chăn gần gũi tín hữu hơn là điều quan trọng.
Hỏi: Đức Hồng Y đã sống sự gần gũi này như thế
nào?
Đáp: Các thời điểm quan trọng nhất là chiều thứ bẩy
và Chúa Nhật, khi tôi đến các giáo xứ để cử hành thánh lễ và gặp gỡ giáo dân, ban
bí tích Thêm Sức, và ở lại nói chuyện với họ một giờ. Trong 30 năm qua tôi đã luôn
luôn làm như vậy, vì thế tôi đã sống sự hiệp thông với Giáo Hội. Cầu nguyện với giáo
dân, cử hành thánh lễ, giảng dậy, và ban các bí tích. Chính trong thực tại bình thường
của các giáo xứ, nơi có thể đến nhà thờ một cách dễ dàng không cần phải đi xa, người
ta có thể tham dự cuộc sống đức tin. Và đôi khi chỉ có các người giả cả, phụ nữ trẻ
em và vài người nghèo nàn, chứ không phải là đoàn ngũ những người thông thái, giầu
sang. Y như thánh Phaolô viết trong thư gửi tín hữu Corinto: giữa họ không có nhiều
người khôn ngoan thông thái, quyền thế giàu sang theo thịt xác. Nhưng Thiên Chúa đã
chọn những ngưười bé nhỏ nghèo hèn để không ai có thể vênh vang tự đắc. Chính vì thế
Giáo Hội được dân chúng làm cho tiến triển với ý thức đức tin của họ chứ không phải
do hàng giáo sĩ.
Hỏi: Người ta kinh nghiệm sự gần
gũi này khi đem con đến nhà thờ xin rửa tội. Mới đây Đức Hồng
Y có giải thích rằng việc này không chỉ liên quan tới thói quen. Nhưng có nhiều
người cho rằng rửa tội cho trẻ em là vô ích, vì chúng chưa có ý
thức, Đức Hồng Y nghĩ sao?
Đáp: Khi tới một
lúc nào đó trong cuộc sống của mình giáo phụ Tertulliano nói trẻ em không được rửa
tội nữa, ai muốn lãnh bí tích rửa tội thì phải đợi tới tuổi trưởng thành, Roma đã
trả lời là chính Chúa Giêsu đã nói hãy để trẻ em đến với Ta. Lý do rửa tội cho trẻ
em là vì chính Chúa Giêsu muốn như vậy. Sự hiện diện của trẻ em được rửa tội trong
Giáo Hội là một sự phong phú, mà chúng ta không bao giờ được phép quên. Đó là một
ơn thánh và một đặc ân mênh mông: là ngay từ khi còn thơ được sống trong bầu khí cầu
nguyện, phụng tự, đươc tham dự thánh lễ. Tôi còn nhớ khi lên 4, 5 tuổi trước khi được
rước lễ lần đầu, tôi đã được theo cha mẹ tới nhà thờ tham dự các lễ nghi phụng vụ.
Có một trào lưu tin lành chống lại việc rửa tội cho trẻ em. Và tôi đã nghe vị mục
sư than phiền rằng trong nhà thờ không có trẻ em mà chỉ có người lớn thôi. Một Giáo
Hội không có trẻ em không phải là Giáo Hội của Chúa Giêsu.
Truyền thống rửa
tội cho trẻ em cho thấy Giáo Hội tin rằng việc tới với đức tin là công trình của Chúa
Giêsu. Đồng thời nó cũng biểu lộ rằng Giáo Hội là nơi các trẻ em và người nghèo chiếm
chỗ nhất. Giáo Hội không phải là một hiệp hội của những người toàn thiện, ý thức và
tự lập. Giáo Hội không phải là một hiệp hội của những người ưu việt. Chúng ta thường
tin rằng mình càng ý thức bao nhiêu thì ơn thánh càng thấm sâu bấy nhiêu, nhưng không
phải như thế. Công việc của ơn thánh không được đo lường bằng ý thức tâm lý. Ơn thánh
đi trước ý thức và không bị ý thức điều kiện hóa. Thiên Chúa yêu thụ tạo như nó là,
dù nó có ý thức hay không. Ngài biết làm việc thế nào với các linh hồn, cả với các
linh hồn không có ý thức nữa, linh hồn các trẻ thơ cũng như linh hồn của người hấp
hối và người bệnh vào giai đoạn cuối cùng. Chỉ có ý thức gian ác là chống lai ơn thánh
thôi, chứ không phải là sự vô thức vô tội. Thế rồi ai có thể cưỡng lại bàn tay của
Thiên Chúa, khi Ngài muốn kéo chúng ta tới với Ngài? Với tất cả ý chí tiêu cực của
mình Phaolô đã không thể cưỡng lại Chúa ở cửa thành Damasco.
Hỏi: Thế mà
vẫn có người cho rằng trong tình trạng khủng hoảng đức
tin hiện nay cần phải siết chặt hàng ngũ. Phải kiểm soát những người
xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội và các bí tích khác, và phải từ chối những người
không thích hợp và không dấn thân sống các bí tích, Đức Hồng Y nghĩ
sao?
Đáp: Lập trường này khiến tôi nghĩ tới giai thoại quan
Naaman là tướng chỉ huy quân đội của Siria, bị bệnh phong hủi và tìm đến với ngôn
sứ Elideo để xin chữa lành. Khi thấy ngôn sứ sai người ra nói xuống tắm 7 lần trong
sông Giordan, quan giận dữ, vì thấy mình đã mất công từ Siria đến đây và vấn đề chỉ
đựơc giải quyết với việc tắm sông. Nhưng sau cùng nhờ các đầy tớ góp ý, ông xác tín
xuống sông Giordan tắm 7 lần và được lành bệnh. Quan trở lại muốn thưởng công cho
ngôn sứ, làm như là trả tiền cho việc cứu giúp, nhưng ngôn sứ từ chối, vì ơn thánh
của Thiên Chúa được cống hiến nhưng không cho tất cả mọi người. Theo tôi quan Naaman
là hình ảnh của tất cả những người không biết chấp nhận rằng ơn thánh đơn sơ như vậy.
Hỏi: Trong thời gian sắp mãn nhiệm Đức Hồng Y có muốn đưa ra
tổng kết nào không?
Đáp: Nếu so sánh ngày nay với
thời tôi còn bé, biết bao chuyện đã thay đổi.
Thời xưa còn có một loại Kitô
giáo có tính cách xã hội, trong đó người ta là Kitô hữu vì truyền thống, như thể sinh
ra đã là Kitô hữu rồi. Nhưng ngày nay thì không còn như thế nữa. Đức tin thường đã
trở thành một sự kiện cá nhân, đôi khi duy cá nhân. Dĩ nhiên tôi không nói xấu về
loại Kitô giáo của truyền thống gia đình đó, và tôi rất biết ơn cha mẹ tôi, vì nhờ
các ngài mà ngay từ tấm bé tôi đã biết đức tin. Đây là một điều lợi. Tuy mọi sự xem
ra đã thay đổi với thời gian, và thay đổi theo chiều hướng như hiện nay, nhưng lại
càng hiển nhiên hơn là chúng ta chỉ có thể hy vọng nơi Chúa mà thôi. ”Bé gái Hy vọng”
đó đã là đề tựa bức thư mục vụ cuối cùng của tôi. Niềm Hy vọng như là một bé gái tiến
bước giữa hai cô chị lớn là đức tin và đức mến. Dân Kitô tưởng rằng hai cô chị cầm
tay dẫn cô em bé bước đi, nhưng trái lại chính bé gái Hy vọng lôi hai chị tiến tới.
Hỏi: Theo Đức Hồng Y, đâu là chướng ngại lớn nhất
đối với việc loan báo Tin Mừng hiện nay: sự thù nghịch của thế giới không còn
là Kitô nữa, hay sự ích kỷ của các cá nhân, hoặc hồi giáo?
Đáp:
Chướng ngại lớn nhất đối với việc loan báo Tin Mừng không phải là sự kháng cự của
xã hội hay sự thù nghịch của thế giới. Sự kháng cự lớn nhất là sự thiếu tin tưởng
của người muốn rao truyền Tin Mừng, không tin tưởng nơi sức mạnh riêng của Lời Chúa.
Với các môn đệ thất vọng vì các khó khăn gặp phải Chúa Giêsu đã kể cho họ nghe 3 dụ
ngôn trong Phúc Âm thánh Marcô: dụ ngôn người gieo giống, dụ ngôn hạt giống rơi vào
lòng đất và nẩy mầm một mình, và dụ ngôn hạt cải. Chúa tìm cách cho các môn đệ hiểu
mọi chuyện tiến hành ra sao. Hạt giống nẩy mầm và sinh bông hạt không phải vì người
ta bỏ nhiều hạt giống vào lòng đất, hay vì sự dấn thân của người gieo hạt. Hạt giống
tự nó mạnh mẽ và sinh bông hạt.
Hỏi: Có người chỉ
trích Đức Hồng Y là đã không leo lên chiến lũy để
chiến đấu, hay đã không đưa ra các chỉ thị
và hướng dẫn cho các linh mục và tín hữu giáo phận, Đức Hồng
Y nghĩ sao?
Đáp: Chắc chắn tính tình của tôi cũng là lý
do của thái độ này. Nhưng trong Kinh Thánh cũng có nói rằng người tôi tớ của Thiên
Chúa không lên tiếng giữa đường. Người ta không bao giờ nhớ và nói đến điều này. Tôi
xác tín về sức mạnh thinh lặng nhiệm mầu của Lời Chúa. Đây không phải là chuyện không
làm gì cả. Tôi đã làm việc từ sáng tới chiều, nhưng không la lối, không lớn tiếng.
Thế rồi có phương pháp của thánh Phaolô bắt đầu rao giảng và nói tiên tri tại các
quảng trường. Nhưng cũng có phương pháp của Mẹ Maria, giống phương pháp của cái lò
sưởi, không nói gì cả, nhưng sưởi ấm mọi người ngồi chung quanh.
Hỏi: Khi
viếng thăm Brescia hồi năm 1968 Đức Giáo Hoàng Phaolo
VI có nói rằng: ”nhiều người chờ đợi nơi Giáo Hoàng
các cử chỉ gây chấn động, các can thiệp cứng rắn quyết liệt.
Giáo Hoàng không thấy phải theo đường lối khác với đường
lối của sự tin tưởng nơi Chúa Giêsu Kitô, là Đấng
thúc đẩy Giáo Hội hơn bất cứ ai hết. Chính Ngài sẽ làm cho bão
táp lắng dịu. Đây không phải là một sự chờ đợi khô cằn
hay bất động, mà là sự chờ đợi thức tỉnh trong cầu nguyện,
mà chính Chúa Giêsu đã chọn cho chúng ta, để Ngài có thể hoạt
động trong sự trọn vẹn”. Đức Thánh Cha Biển Đức
XVI cũng đã lập lại câu này trong chuyến viếng thăm Brescia. Thái độ
này xem ra phù hơp với lập trường của Đức
Hồng Y, có đúng thế không?
Đáp: Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI đã là vị Giáo Hoàng mà tôi cảm thấy gần gũi nhất. Cả Đức Thánh Cha Biển
Đức XVI cũng có cùng thái độ như Đức Phaolô VI là không la lối, và chỉ nói lên và
đề nghị các điều cần nói với một ít tin tưởng. Ngài không phải là típ người thể thao
như đức Gioan Phaolô II là một mẫu Giáo Hoàng khác.
Hỏi: Trong các thời
gian qua, xem ra Đức Thánh Cha Biển Đức XVI cũng nhấn mạnh
trên điểm này. Khi khai mạc Thượng Hội Đồng Giám
Mục Phi châu Đức Thánh Cha đã nói các Tông đồ
cũng chờ đợi hoạt động của Chúa Thánh Thần, vì các vị
biết rằng ”Giáo Hội không phải là điều có thể làm ra, Giáo Hội không
phải là sản phẩm tổ chức của chúng ta”. Đức Hồng Y thấy ngày nay có
cần nhắc nhở thực tại này với Giáo Hội hay không?
Đáp: Giáo
Hội cần thánh Agostino, là người đã nói: ơn thánh làm tất cả. Chúng ta phải cộng tác,
nhưng chính Thiên Chúa hoạt động. Trái lại chúng ta bị cám đỗ theo thuyết của Pelagio,
cho rằng các sự việc tùy thuộc nơi chúng ta và chỉ cần Thiên Chúa giúp một chút thôi.
Và như thế chúng ta chối bỏ quyền năng của ơn thánh như đã xảy ra thời thánh Agostino.
Hỏi: Đức Hồng Y nhận thấy cám đỗ này đã
hiện diện trong Giáo Hội khi nào?
Đáp: Hồi thập niên 1960-1970
khuynh hướng này có mầu sắc chính trị. Nhiều người nghĩ rằng việc thực hiện Nước Chúa
là một cuộc cách mạng xã hội. Hiện nay một vài người của nền Thần học giải phóng đã
đổi sang Thần học môi sinh. Nhưng họ đã chỉ thay đổi khí giới thôi. Trong các thập
niên 1980-1990 kiểu giải thích việc rao truyền Tin Mừng như là kết qủa hoạt động của
Giáo Hội trong xã hội thắng thế. Ngày nay cùng khuynh hướng đó nhưng nó có hình thức
sửa chữa hơn. Có người nói sau Công Đồng đã có sự lạc hướng, biết bao nhiêu điều tốt
lành đã bị phá tán, nhưng giờ đây chúng tôi sửa chữa lại lộ trình cho ngay ngắn. Họ
luôn đưa ra các điều nòng cốt như phụng vụ, giáo lý và việc chầu Thánh Thể ... nhưng
xem ra họ chỉ dùng những thứ đó như lá cờ và chỉ thay đổi khẩu hiệu, còn hướng đi
nền tảng vẫn như thế. Nghĩa là chúng ta vẫn bị cám dỗ tự mình làm lấy tất cả, trước
đây thì trong phong trào công giáo tiến hành, rồi trong các phong trào khác; trước
đây thì trong việc canh tân công đồng, giờ đây trong việc tu sửa công đồng. Chúng
ta luôn luôn là các diễn viên phô trương chính mình. Nhưng thực ra không lợi ích gì
vì không có Chúa Giêsu. Như thánh Phaolô đã nói ngày nay chúng ta có nhiều thầy dậy,
nói và dậy dỗ nhân danh Chúa Kitô, nhưng không hiến mạng sống mình, không là cha trong
Chúa Kitô, vì họ không phải là con.
Hỏi: Giáo Hội tại Bỉ đã
tiếp nhận việc cho dùng sách lễ tiếng Latinh của Đức Giáo Hoàng Pio
V thời tiền công đồng như thế nào?
Đáp:
Mọi lễ nghi đều tốt, khi đó là các lễ nghi công giáo. Tỗi vẫn nghĩ rằng với Tự sắc
Summorum Pontificium, Đức Thánh Cha muốn bầy tỏ sự khoan nhượng và sẵn sàng của ngài
để mọi người bảo thủ trở về với Giáo Hội công giáo. Nhưng tôi không tin là nó đủ để
giúp giải quyết vấn đề, bởi vì vấn đề của nhóm Lefèbvre không phải là lễ nghi, mà
là Công Đồng Chung Vaticăng II. Vấn đề phụng vụ chỉ là cái đầu máy. Cần phải xem trong
các toa xe do đầu máy đó kéo chuyên chở cái gì. Hỏi: Chính tại
Malines này hồi thập niên 1920 đã có các tiếp xúc đại
kết giữa công giáo và tin lành do Đức Hồng Y Joseph Mercier khuyến khích.
Đức Hồng Y coi tài liệu cho phép các cộng đoàn anh giáo gia nhập
Giáo Hội công giáo như thế nào?
Đáp: Đây cũng
đã là một dấu chỉ sự sẵn sàng của Đức Thánh Cha trong việc tiếp nhận các tín hữu anh
giáo vào Giáo Hội công giáo. Nhưng phải chờ đợi vài năm để xem quyết định này có phải
là giải pháp tốt nhất hay không. Chúng ta sẽ thấy tùy theo các kết qủa của nó. Nói
chung tôi thấy tương quan giữa Anh giáo với Công giáo có sự không tin tưởng nào đó.
Tổng Giám Mục Rowam Williams đã hội kiến với Đức Thánh Cha. Nhưng khi đọc diễn văn
Đức Cha Williams nói tại Đại học giáo hoàng Gregoriana, tôi cảm thấy thất vọng. Nó
đã không có chút hứng khởi nào.
Hỏi: Đức Hồng Y nghĩ gì về
án phong chân phước cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II? Đáp: Tôi nghĩ là phải tôn trọng lộ trình bình thường. Nếu tự nó án phong
chân phước tiến hành nhanh, thì là điều tốt thôi, Nhưng sự thánh thiện không cần phải
theo các con đường đặc biệt. Đức Giáo Hoàng cũng là tín hữu được rửa tội như mọi tín
hữu khác, vì thế tiến trình phong chân phước phải như tất cả mọi người.