Hội ”Đạo Binh Hồn Nhỏ” chính thức thành
hình và chuẩn nhận ngày 29-9-1971, tại Chèvremont, thuộc giáo phận Liège, Vương quốc
Bỉ. Hội thành hình thể theo ước nguyện của thánh nữ Têrêxa Hài Đồng GIÊSU và thánh
ý THIÊN CHÚA. Mục đích của Hội do chính Đức Chúa GIÊSU giải thích:
- Để
chống lại đoàn lũ Satan, các con hãy họp thành Đạo Binh
Hồn Nhỏ. Con cái Trời Cao chống lại con cái tối tăm. Lửa Trời
Cao đối lại lửa hỏa ngục. Khí giới của các con là TÌNH YÊU.
Hội
Đạo Binh Hồn Nhỏ phổ biến khắp năm châu, trong đó có Việt Nam và Ba Lan. Và cụ Zdzislaw
Wojtowicz từng là Chủ Tịch Hội Đạo Binh Hồn Nhỏ, phân bộ Ba Lan. Điều đáng nói: cụ
là tù nhân sống sót của trại tập trung Auschwitz (Ba Lan) và là người chứng kiến nghĩa
cử anh hùng của Cha Massimiliano Kolbe (1894-1941): thí mạng chết thay cho một tù
nhân có vợ và hai con. Cụ Wojtowicz bị giam cùng khu tù với Cha Kolbe. Cụ kể lại như
sau.
Một ngày cuối tháng 7 năm 1941, nơi khu 11 của trại tù đức quốc xã, một
tù nhân trốn khỏi trại. Theo luật trại: - Cứ một tù nhân vượt ngục, thì 10 tù
nhân khác cùng khu phải chết thay. Những người này sẽ bị đưa vào hầm và bị bỏ đói
đến chết.
10 tù nhân trong khu 11 bị gọi tên ”đền mạng”. Trong bầu khí im
lặng hãi hùng, một tiếng khóc thất vọng não nề vang lên: - Chúa ơi, con không
bao giờ còn trông thấy khuôn mặt vợ hiền và các con của con nữa!
Tức khắc,
trong đám tù nhân khu 11, Cha Kolbe rời khỏi hàng ngũ, tiến về phía viên chỉ huy người
Đức tên Fritsch. Fritsch giơ cao họng súng vừa đe dọa vừa quát lớn: - Đứng lại!
Ông muốn gì?
Cha Kolbe đáp: - Tôi muốn chết thay cho một trong các tù
nhân bị kết án tử này.
Viên chỉ huy kinh ngạc hất hàm hỏi: - Tại sao?
Cha Kolbe vừa giơ tay chỉ vào người đàn ông đã khóc lóc thảm thiết ban nãy vừa trả
lời: - Bởi vì tôi độc thân, còn ông ta đã lập gia đình và có con cái.
Viên chỉ huy người Đức hỏi thêm: - Ông là ai?
Cha Kolbe trả lời:
- Tôi là Linh Mục Công Giáo!
Mọi người im lặng nín thở. Viên chỉ huy
người Đức thật sự sững sờ, lúng túng. Ông tránh vội cái nhìn như bốc cháy ngọn lửa
tình yêu của vị Linh Mục Công Giáo. Ông đáp cộc lốc: - Được!
Biến cố gây
ấn tượng mạnh và ghi dấu sâu xa trong linh hồn tôi. Nó như vẫn còn vang vọng trong
tôi cho đến ngày hôm nay. Cha Massimiliano Kolbe sống mãi đến ngày 14-8-1941, trong
khi 9 tù nhân khác đã chết vì đói và vì khát. Sau cùng, người ta chích thuốc độc cho
Cha chết.
Đây là biến cố phi thường: Cha Kolbe chết vì tình yêu tha nhân.
Cha được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 10-10-1982.
Năm sau đó, nhân dịp kỷ niệm một năm ngày phong thánh, tôi được đề cử đi Roma và được
Đức Thánh Cha tiếp kiến, với tư cách là người chứng kiến cái chết anh hùng của Cha
Massimiliano Kolbe. Hồi ấy tôi cũng là thành viên nhiệt thành của Hội Đạo Binh Hồn
Nhỏ. Tôi mang theo bản dịch tiếng Ba Lan cuốn Sứ Điệp Tình Yêu Nhân Hậu gởi các Hồn
Nhỏ và trao tặng Đức Thánh Cha.
Khi nhận cuốn Sứ Điệp, Đức Thánh Cha ưu ái
nói với tôi: - Cha chúc lành cho con vì đã phổ biến Hội này trong tổ quốc Ba Lan
yêu dấu. Xin THIÊN CHÚA chúc lành cho các con, hầu cho Hội bành trướng luôn mãi, vì
đây là điều có giá trị trong thời đại ngày nay!
Sau lần được Đức Thánh Cha
chúc phúc, Hội Đạo Binh Hồn Nhỏ lan nhanh trong các nước Đông Âu như Ucraine, Bạch
Nga, Lituani và Lettoni. Tháng 8 năm 1992, tôi lại đi Roma gặp Đức Thánh Cha và dâng
ngài cuốn Sứ Điệp khác, bản dịch tiếng Ba Lan. Lần này, Đức Thánh Cha hỏi tôi:
- Có bao nhiêu thành viên Hội Đạo Binh Hồn Nhỏ ở Ba Lan, Ucraine và Bạch Nga?
Tôi trả lời phỏng chừng: - Tâu Đức Thánh Cha, khoảng 100 ngàn người!
Đức
Thánh Cha tỏ dấu ngạc nhiên và nói: - Không ai trong các con biết
được mùa gặt dồi dào các con đã thu hoạch
được tại Đông Âu, nhờ việc phổ biến Hội
Đạo Binh Hồn Nhỏ. Chính Đạo Binh Hồn Nhỏ
làm sụp đổ chế độ cộng sản,
bởi vì, Hội đã làm thức tỉnh Đức
Tin mà đảng cộng sản cướp mất khỏi tâm lòng
và đời sống của người
dân vào năm 1939. Cha chúc lành cho toàn thể Đạo
Binh Hồn Nhỏ.
... Đức Chúa GIÊSU phán: ”Đây là điều
răn của Thầy: Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy yêu
thương anh em. Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của
người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. Anh em là bạn
hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy
không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng
Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được
nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Gioan 15,12-15).
(”La Légion des Petites Âmes”, 1+2+3/1999, trang 31-34)