Vào Đại Năm Thánh 2000, 4 đại chủng sinh Căm-Bốt xuất du 4 tháng sang Paris, thủ đô
nước Pháp. Các Thầy ra đi vừa để học thêm tiếng Pháp vừa để tìm hiểu sinh hoạt của
Giáo Hội Công Giáo tại Pháp. Nhân dịp này các chủng sinh tham dự Ngày Quốc Tế Giới
Trẻ diễn ra tại Roma từ 15 đến 20 tháng 8 Năm Thánh 2000.
Ngày mùng 1 tháng
10 năm 2000, các tín hữu Công Giáo Khờ-me sống tại Paris họp nhau tại trụ sở các Cha
Hội Thừa Sai Paris (MEP) để mừng lễ dân tộc Pchum Ben. Có mặt tại buổi lễ, các chủng
sinh Căm-Bốt được mời trình bày chứng từ ơn gọi. Thầy Suon-Hang-Ly nói:
Tôi sinh ra tại làng Moat Krasas huyện Lovéa Em tỉnh Kandal. Năm nay tôi 29 tuổi.
Mẹ tôi là tín hữu Công Giáo trong khi Cha tôi là phật tử. Tôi được rửa tội lúc mới
sinh ra, nhưng tôi không biết tí gì về giáo lý đạo Công Giáo. Vào các ngày hội lớn,
tôi đi lễ chùa và bắt chước các phật tử, tôi bái mình thật sâu trước các vị sư và
trước tượng Phật. Năm 1990, chính quyền Căm-Bốt cho phép tự do phụng tự, Mẹ bảo tôi
đi nhà thờ. Tôi vâng lời đi vì tò mò và vì muốn nghe vị giáo lý viên nói về Đức Tin
Công Giáo. Dần dần, tôi cảm thấy thích nghe Lời Đức Chúa GIÊSU KITÔ phán dạy. Tôi
được chấp nhận dọn mình xưng tội và rước lễ lần đầu. Sau đó, tín hữu Công Giáo trong
làng khuyên tôi gia nhập chủng viện để có thể trở thành Linh Mục. Nhưng tôi không
muốn tí nào cả.
Năm 1991, tôi sang Thái Lan sống trong một trại tị nạn. Vào
thời kỳ ấy, Cha Bernard - phụ trách việc huấn luyện các bạn trẻ muốn trở thành Linh
Mục - đi Căm-Bốt và đến thăm làng Moat Krasas. Người dân trong làng bày tỏ với Cha
mong muốn trông thấy ngày kia tôi sẽ trở thành Linh Mục. Trở lại Thái Lan, Cha Bernard
đến trại thăm tôi và hỏi: - Có thật anh ước ao trở thành Linh Mục không?
Tôi trình bày và chia sẻ với Cha những suy tư của tôi và chúng tôi cùng nhau cầu nguyện.
4 tháng sau, tôi cho Cha Bernard biết quyết định. Tháng 9 năm 1991, tôi giã từ căn
hộ sống chung với anh tôi và cất riêng một nhà tranh, vách tre và mái lá. Tôi chia
sẻ căn nhà tranh với người bạn tên Phok-Sovouthy, có cùng ước nguyện. Vài tháng sau
có thêm bạn trẻ Lay-Paul đến sống với hai chúng tôi. Sau đó chúng tôi gia nhập chủng
viện tại Căm-Bốt.
Tiếp lời đại chủng sinh Suon-Hang-Ly, thầy Lay-Paul
nói về diễn tiến ơn gọi:
Tôi chào đời tại thủ đô Phnom-Penh. Cha mẹ tôi là
phật tử và tôi là anh cả gia đình có 8 người con. Cùng với em trai, chúng tôi sang
Thái Lan sống nơi trại tỵ nạn từ 1984 đến 1992. Thời gian này, tôi bị thử thách nhiều,
nhất là trên phương diện tinh thần. Tôi cảm thấy tương lai mờ mịt, không biết đời
mình rồi sẽ đi về đâu. Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa vì không có mục đích. Lúc ấy tôi
chưa được hồng phúc biết đến Kitô Giáo. Tôi chỉ có ước mơ: định cư nơi một nước thứ
ba để có thể kiếm tiền gởi về giúp gia đình. Nhưng ngay từ giây phút tôi ước muốn
biết THIÊN CHÚA, tôi không còn mộng mơ định cư nơi một nước thứ ba nữa.
Năm
1989, Linh Mục quí danh Pierre Ceyrac hàng tuần đến viếng thăm trại tỵ nạn. Đây là
lúc cùng với một nhóm Khờ-me của trại, chúng tôi thực sự tìm kiếm THIÊN CHÚA. Rủi
thay, chúng tôi không có người hướng dẫn để tìm hiểu về Kitô Giáo. Trong vòng hai
năm trời, tôi không ngừng miên man suy nghĩ về vấn đề: - Tại sao có nhiều người
khao khát tìm kiếm THIÊN CHÚA, nhưng lại không được ai hướng dẫn đến với Ngài?
Tôi tha thiết kêu xin THIÊN CHÚA gởi các sứ giả mang Tin Mừng đến loan báo cho những
người đói khát tinh thần này. Thời gian làm chín mùi ước mơ và đưa tôi đến quyết tâm
trở thành người hướng dẫn các anh chị em tôi hầu giúp họ nhận biết THIÊN CHÚA.
Để đi tới cuộc sống chủng sinh hôm nay, tôi đã nhận ảnh hưởng sâu xa gương sống của
Cha Pierre Ceyrac. Tôi cảm phục lòng tận tụy và quảng đại Cha dành cho người tỵ nạn.
Cuối năm 1991, tôi quyết định nhập chung nhóm của Suon-Hang-Ly để tìm hiểu và sống
ơn gọi chủng sinh.
... Đức Chúa GIÊSU nói với các môn đệ:
”Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai
muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ
tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được
cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người
ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Matthêô 16,24-26).
(”Missions Étrangères de Paris”, n.355, Janvier/2001, trang 21-22)