Cách đây hơn 90 năm, từ tháng 2 đến tháng 12 năm 1916, thống chế Philippe Pétain (1856-1951),
người Pháp, chỉ huy trận đánh khốc liệt nhất - trong thời thế chiến thứ nhất 1914-1918
- để đẩy lui sức tấn công vũ bão của quân đội Đức, tại Verdun, thuộc miền Đông Bắc
nước Pháp. Trong trận chiến, binh lính Pháp phân chia thành nhiều trung đội. Mọi người
dốc toàn lực để chiến đấu, vì đó là danh dự của tổ quốc .. Quân Pháp thắng trận vẻ
vang nhưng với giá vô cùng đắt đỏ. Binh sĩ Pháp gục chết như rạ. Từ đó Verdun gắn
liền với tên gọi ”Mồ chôn tuổi trẻ và rừng núi chiến thắng”.
Xin trích dịch
lá thư của một binh sĩ Pháp, tham gia trận đánh tại Verdun, viết cho hiền mẫu. Lá
thư đề ngày Thứ Bảy 25-3-1916.
Mẹ yêu dấu. Không rõ phép lạ nào đưa con ra
khỏi nơi chốn địa ngục này. Không biết bao nhiêu lần con như còn mơ màng tự hỏi: ”Phải
chăng mình thực sự còn sống?” Mẹ à, chúng con gồm cả thảy một nghìn hai trăm (1200)
binh sĩ tham gia trận chiến. Khi trận chiến chấm dứt, chúng con chỉ còn vỏn vẹn ba
trăm (300) người. Cơ may nào khiến con lọt vào số 300 người sống sót? Con không rõ!
Mẹ biết không, đáng lý ra con đã chết đến cả trăm lần, vào bất cứ giây phút nào, suốt
trong vòng ròng rã 8 ngày tròn chiến đấu. Cứ mỗi lần như thế, con lại thầm nghĩ: ”Giờ
cuối cùng đã điểm!” Trước khi khởi đầu cuộc chiến, mỗi người chúng con đều sẵn sàng
hy sinh mạng sống, bởi lẽ, chúng con biết chắc không thể nào sống sót sau một trận
chiến khốc liệt kinh hoàng như thế!
Vâng, đúng thế Mẹ à! Tất cả chúng con
đều chịu đau khổ cách tột cùng. Mỗi người không bao giờ có thể diễn tả cho hết nỗi
thống khổ đã trải qua. Ngoài đau khổ tinh thần lớn lao nhất luôn đè nặng vì biết chắc
mình có thể chết bất cứ lúc nào, còn kèm thêm đau khổ thể xác của những đêm dài thức
trắng. 8 ngày trọn không uống nước và gần như không ăn gì cả. 8 ngày trọn sống giữa
những ”đống thịt người”, nằm cạnh các tử thi và đạp lên xác các bạn đồng ngũ ngã gục
chiều hôm trước.
A! Mẹ ơi, con nghĩ thật nhiều về Mẹ và về mọi người thân
yêu trong giờ phút kinh hoàng này. Niềm đau khổ tột cùng nhất trong những lúc ấy chính
là ý nghĩ không bao giờ còn được trông thấy khuôn mặt Mẹ hiền và người thân yêu. Tất
cả chúng con đều già hẳn đi, ôi Mẹ yêu dấu, và rất nhiều người trong chúng con đã
có mái tóc điểm sương. Đây sẽ là dấu chứng ghi khắc vĩnh viễn cho niềm đau trải dài.
Con thuộc về một trong những người ấy, Mẹ à! Giờ đây nơi quân đoàn, chúng con không
bao giờ còn có thể cười vang. Niềm vui đã vĩnh viễn biến mất, bởi vì, tận cùng thẳm
trái tim, chúng con để tang cho tất cả anh em đồng binh chủng gục ngã tại Verdun trong
tuần lễ từ mùng 5 đến 12 tháng 3. Có thật là niềm hạnh phúc cho con vì thoát chết
không? Con cũng không biết! Nhưng nếu con phải ngã gục sau này thì tốt hơn cả là con
nên ở lại nơi vùng đồi núi Verdun!
Mẹ thật có lý khi cầu nguyện nhiều cho
con! Mỗi người lính trẻ chúng con đều cần nhờ ai đó cầu nguyện thật nhiều cho chúng
con. Phần con, cứ mỗi lần bom rơi, bom nổ ngay bên cạnh, con thường lâm râm đọc các
Lời Kinh con học thuộc lòng lúc con còn bé tí teo! Và Mẹ nên tin lời con nói rằng,
chưa bao giờ con đọc Kinh với trọn lòng sốt sắng như trong những lúc ấy.
Con trai Mẹ vô cùng yêu thương Mẹ và trìu mến ôm hôn Mẹ triệu triệu
lần. Ký tên.
Ghi chú. Người lính trẻ viết những dòng trên đây gởi
Mẹ, quả thật anh bị trọng thương 6 tháng sau đó vào ngày 8-9-1916. Anh được thuyên
chuyển về Bệnh Viện thành Chartres (Trung Pháp) và qua đời ngày 11-9-1916.
... ”Hỡi con, lệnh cha con truyền, hãy lo tuân giữ. Lời mẹ con dạy, chớ bỏ ngoài tai.
Những lời truyền dạy đó, con hãy khắc trong tim, con hãy đeo
vào cổ, để ghi nhớ đêm ngày. Những lời đó
sẽ hướng dẫn con lúc con lui tới, sẽ gìn giữ con khi con nằm
xuống, sẽ cùng con chuyện trò khi con thức dậy. Vì huấn lệnh là ngọn đèn, lời
dạy dỗ là ánh sáng, và lời quở trách bảo ban là đường dẫn tới sự sống”
(Sách Châm Ngôn 6,20-23).