Tại một thành phố nước Ý có một tín hữu Công Giáo mang tên thánh rửa tội là Giuseppe
(tên Thánh Cả GIUSE). Ông Giuseppe có cuộc sống thật đáng xấu hổ nghĩa là ăn chơi
sa đọa. Thế nhưng, ông thường tự hào và khoe với mọi người:
- Tôi mang tên
vị Thánh Cả, Quan Thầy người hấp hối. Tôi tin tưởng vững chắc vào ngày cuối đời, tôi
sẽ được Thánh Cả GIUSE đến cứu giúp!
Một buổi tối, sau khi vui chơi thỏa thích,
ông Giuseppe lê bước trở về nhà. Đến nơi, ông trông thấy cửa nhà hé mở và một luồng
ánh sáng kỳ lạ từ trong nhà chiếu ra. Ông bỗng có cảm giác ớn-lạnh với tư tưởng đầu
tiên: ”Có lẽ kẻ gian lẻn vào nhà để ăn trộm!” Nghĩ thế nhưng ông lấy hết can đảm mở
toang cánh cửa và nói lớn tiếng:
- Có ai đang ở trong nhà không?!
Tức khắc, xuất hiện ngay trước mắt ông hình ảnh Thánh Cả GIUSE cùng với Đức Nữ Trinh
Rất Thánh MARIA trên tay bồng Chúa Hài Nhi GIÊSU. Cả Ba Đấng chăm chú nhìn ông Giuseppe
với nét mặt thật buồn bã. Rồi Thánh Cả GIUSE tiến đến trước mặt ông và nói:
- Làm sao con có thể tự hào mang tên của Ta và hy vọng Ta sẽ cầu bầu
cho con vào ngày sau cùng, trong khi con sống bất xứng, xúc phạm nặng nề đến Hai Đấng
mà Ta hết lòng yêu mến???
Vừa nói Thánh Cả GIUSE vừa
giơ tay chỉ vào Đức Mẹ MARIA đang bồng Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng trên tay!
Nghe
đến đây và thấy tỏ tường Ba Đấng đang đứng trước mặt, ông Giuseppe chỉ còn biết quỳ
sụp xuống đất. Ông cảm thấy xấu hổ và thật lòng ăn năn thống hối về mọi tội đã phạm
với cuộc sống đáng chê đáng trách. Ông thề hứa với Thánh Cả GIUSE, với Đức Mẹ MARIA
và với Đức Chúa GIÊSU Hài Đồng là ông sẽ thay đổi lối sống.
Kể từ ngày ấy
ông Giuseppe trở về với Giáo Hội Công Giáo. Ông sống xứng với tên gọi của thánh quan
thầy là Thánh Cả GIUSE. Ông cũng cố gắng sống thế nào để vào giờ hấp hối, ông được
chính Thánh Cả GIUSE đến giúp chết lành và đưa ông về hưởng Thánh Nhan THIÊN CHÚA
trên Thiên Đàng.
... Câu chuyện thứ hai xảy qua nơi vương quốc Anh. Một Linh
Mục dòng Anh Em Thuyết Giáo (dòng Đa Minh) nổi tiếng giảng hay. Cha được nhiều người
cảm mến. Dân chúng tuốn đến nghe Cha giảng rất đông. Thế nhưng trong một công cuộc
cao cả lành thánh như việc rao giảng Lời Chúa, vị giảng thuyết lại rơi vào vòng phù-du
thế trần! Nghĩa là Cha giải thích Lời Chúa với thứ ngôn từ có tác dụng kích thích
tính tò mò và thêm vào đó những câu chuyện bèo-bọt nghe thật êm tai! Thật ra vị Linh
Mục không biết mình đang đi vào con đường lầm lạc.
Một đêm kia khi vị giảng
thuyết sốt sắng cầu nguyện thì thấy Đức Chúa GIÊSU KITÔ hiện ra. Ngài cầm trên tay
cuốn sách tuyệt đẹp đang mở ra. Vị Linh Mục trông thấy những hàng chữ trên cuốn sách
viết bằng vàng lóng lánh. Cùng lúc Cha thấy trên bìa trang giấy lại lấm tấm những
vết bùn nhơ xông mùi hôi thối. Vị giảng thuyết ngạc nhiên hỏi cho biết lý do tại sao
cuốn sách tuyệt đẹp với chữ viết bằng vàng lại bị dính bùn dơ bẩn thỉu. Đức Chúa GIÊSU
hiền từ giải thích:
- Các chữ vàng con trông thấy chính là Lời Thầy, Lời Linh
Thiêng Thánh Thiện. Trong khi các vết dơ chen lẫn vào đó chính là lời giải thích của
con. Khi giải thích Lời Chúa, con đưa vào những chuyện phù-phiếm thế tục khiến cho
Lời Thầy bị hạ giá, bị vấy bùn. Con đã làm hư hỏng Lời Thầy!
Khỏi cần nói
dài dòng, vị Linh Mục dòng Anh Em Thuyết Giáo hiếu thấu đáo lời cảnh cáo nhân từ của
Đức Chúa GIÊSU KITÔ. Kể từ ngày ấy, Cha chỉ đi sâu vào nội dung chính yếu của Lời
Chúa và tránh xa các lối giải thích mang tính chất phù-du chỉ có tác dụng kích thích
tính tò mò vô ích!
... ”Thưa anh chị em, giờ đây, giả như tôi đến cùng
anh chị em mà chỉ nói các tiếng lạ, giả như lời nói của tôi không đem lại cho anh
chị em một mặc khải, một sự hiểu biết, hay không phải là một lời tiên tri, một lời
giáo huấn, thì nào có ích gì cho anh chị em? Như thế, có khác chi những
nhạc cụ không hồn, như sáo như đàn: Nếu âm thanh không rõ, thì làm sao nhận
ra được cung nhạc tiếng đàn??? Thật vậy, giả như kèn chỉ phát ra một tiếng vu vơ,
thì ai sẽ chuẩn bị chiến đấu? Anh chị em cũng thế: nếu miệng lưỡi anh
chị em chẳng nói những lời có thể hiểu được, thì làm sao người ta biết
điều anh chị em nói? Anh chị em chỉ nói bông lông thôi! Trong thiên hạ, có rất nhiều
thứ ngôn ngữ, nhưng không có thứ nào là vô nghĩa. Vậy nếu tôi không biết giá trị của
ngôn ngữ, thì tôi sẽ là kẻ man dã đối với người nói, và người nói là
kẻ man dã đối với tôi. Anh chị em cũng vậy: vì khao khát
những ơn của Thần Khí, anh chị em hãy tìm kiếm để được dồi dào các ân
huệ đó, nhằm xây dựng Hội Thánh” (Thư 1 gửi tín hữu Côrintô 14,6-12).
(”La Mia Messa”, vol II, Marzo-Aprile-Maggio/2009, Anno III/B, Casa Mariana Editrice,
trang 120+145)