”Gởi Người Anh Em Không Tên” là tựa đề lá thư của một tù nhân Công Giáo Slovak
viết cho một công an cộng sản.
Năm 1948, liên bang Tiệp Khắc rơi vào ách thống
trị của đảng cộng sản vô thần. 2 năm sau, Giáo Hội Công Giáo bắt đầu bị khủng bố.
Thời kỳ bách hại dữ dội nhất kéo dài ròng rã 17 năm: 1950-1967. Phần đông các Giám
Mục, Linh Mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo lý viên, tín hữu Công Giáo nhiệt thành, bị
bắt giam và bị đưa vào các trại lao động cải tạo. Chính trong bối cảnh này mà một
tù nhân Công Giáo Slovak viết bức thư gởi cho người-anh-em địch-thù không tên của
mình.
Người anh em vô danh thân mến. Tôi không biết anh tên gì. Ngay cả giờ
đây tôi cũng không nhớ rõ khuôn mặt anh ra sao. Cuộc gặp gỡ của chúng ta diễn ra trong
chớp nhoáng, khiến tôi không có đủ giờ để ghi sâu hình ảnh anh trong trí nhớ. Thế
nhưng cung cách hành xử của anh gây ấn tượng mạnh nơi tâm hồn và trong cuộc đời tôi.
Có lẽ vì tôi gặp anh trong một giây phút cực kỳ cô đơn, hay có lẽ, bởi vì tôi gặp
anh vào một giây phút bất ngờ nhất, nơi một địa điểm chua xót nhất. Nơi đó thiếu vắng
tình yêu, con tim, sự trìu mến và tình người. Nơi đây con người không còn là người
nữa, nhưng chỉ có hống hách, uy quyền, biểu lộ qua bộ áo công an đồng phục màu xanh
đáng ghét! Nhưng chính nơi đó, anh đi vào cuộc đời tôi!
Vào buổi chiều mùa
hạ tháng 6, một chiếc xe dừng lại trong sân nhà tù Ruzyn. Bọn tù nhân chúng tôi được
lệnh chuyển trại. Trong tù, chúng tôi bị còng tay, còng chân, luôn luôn có những cặp
mắt cú-vọ của bọn công an canh chừng. Đôi khi họ còn dùng chó dữ (chó-nghiệp-vụ!)
để canh giữ chúng tôi nữa.
Nhưng buổi chiều hôm ấy, chúng tôi được lệnh nghỉ
xả hơi trong giây lát. Tôi sung sướng đi ra ngoài, hít thở không khí trong lành và
cảm thấy thật thoải mái vì tay chân tự do cử động.. Nhưng những giây phút tự do thật
ngắn ngủi. Liền sau đó chúng tôi được lệnh sắp hàng trình diện và cái màn kiểm tra
tái diễn.
Mỗi tù nhân phải đặt trước mặt tất cả những gì mình có. Đây là lúc
chúng tôi bị lục soát, bị tịch thu, bị hạch hỏi và bị trừng phạt. Một cảm nghĩ bất
ổn và lo sợ xâm chiếm tâm hồn tôi. Và chính lúc này đây, anh xuất hiện.
Anh
chăm chú nhìn tôi và đưa tay lục soát trong người tôi. Anh thò tay vào túi áo tôi.
Trong nháy mắt, tôi tưởng chừng tim mình ngừng đập! Tôi cảm thấy mấy ngón tay anh
chạm phải một vật. Anh rút vật ấy ra khỏi túi áo tôi và chăm chú nhìn nó. Theo cử
động của đôi môi nhấp nháy, tôi đoán ra câu anh nói:
- TRÀNG CHUỖI MÂN
CÔI!
Hai đôi mắt chúng ta thoáng chạm nhau trong giây lát. Tôi, người
tù mang ám số 5982, còn anh, nhân viên công an, là tên lý hình, là kẻ canh tù!
Tôi lo lắng hồi hộp chờ đợi chuyện phải xảy ra. Tôi thấy anh tỏ dấu đăm chiêu suy
nghĩ. Tôi thấy anh lui bước với Tràng Chuỗi Mân Côi trong tay, nhưng đôi mắt lại chăm
chú nhìn cái xách nylong xẹp-lép nằm dưới đất bên cạnh tôi. Trong xách, chỉ vỏn vẹn
một khúc bánh mì, lá thư cuối cùng của vợ hiền và tờ giấy ghi tội trạng của tôi..
Tôi cảm thấy bủn rủn tay chân như người sắp bị xỉu. ”TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI” là kỷ vật
duy nhất vợ tôi trao cho tôi ngày tôi bị bắt. Tôi đứng im bất động, nghe tim mình
thắt chặt đau buốt!
Ngày hôm sau, trước khi lên đường chuyển sang một trại
giam khác, tôi cúi xuống đất, giơ tay lấy cái xách nylong của tôi, đặt trước cửa phòng
giam số 173. Chúng tôi lại bị còng tay, bị xếp hàng có bọn công an mặc đồng phục xanh,
chĩa súng đi kèm. Có cả chó dữ (chó-nghiệp-vụ!) theo sát chúng tôi nữa.
Trưa
hôm đó, khi thò tay vào xách để lấy khúc bánh mì, tay tôi chạm phải một cái gói nho
nhỏ. Thì ra đó là TRÀNG CHUỖI MÂN CÔI YÊU QUÝ!
Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy lòng
mình dâng lên một niềm vui sướng khôn tả, và nhất là, một tình thương trìu mến đối
với anh, ”người công an mang bộ đồng phục màu xanh đáng ghét”!
Từ đó, mỗi
lần âu yếm mân mê Tràng Chuỗi Mân Côi trong tay để cầu nguyện cùng THIÊN CHÚA và Đức
Nữ Trinh Rất Thánh MARIA, tôi lại nhớ đến anh và thật lòng ghi ơn anh...
... THIÊN CHÚA phán với con rắn: ”Mi đã làm điều đó, nên mi đáng
bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng
bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người
đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống
đó sẽ đạp dập đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (Sách Sáng Thế 3,14-15).
(Cyril Slovák e Jozef Inovecký, ”Heros .. ou Traitres?”, Editions Saggi ed Esperienze,
1976, trang 39-40)