Mầu nhiệm của ánh sáng và sự thiện chiến thắng mầu nhiệm của tối tăm và sự ác
”Mầu nhiệm của ánh sáng và sự thiện chiến thắng mầu nhiệm của tối tăm và sự ác. Mùa
Vọng mời gọi chúng ta nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô suối nguồn ánh sáng
và bước vào dòng sông ánh sáng, để trở thanh những người trao ban ánh sáng, tạo dựng
hòa bình và làm chứng cho sự thật”. Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã khẳng định như trên
trong buổi tiếp kiến hơn 8000 tín hữu và du khách hành hương sáng thứ tư 3-12-2008
trong đại thính đường Phaolô VI. Trong số các đoàn hành hương có nhóm tín hữu Việt
Nam thuộc giáo xứ Đức Bà, Giorgia, Hoa Kỳ.
Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha
đã khai triển đề tài giáo lý ”Tương quan giữa Ađam và Chúa Kitô”. Ngài nói:
Anh chị em thân mến, trong bài giáo lý hôm nay chúng ta sẽ dừng lại trên các tương
quan giữa Ađam và Đức Kitô, như thánh Phaolô đã vạch ra trong một trang nổi tiếng
của thư gửi tín hữu Roma (5,12-21), trong đó thánh nhân cống hiến cho Giáo Hội các
đường nét chính của giáo lý về tội tổ tông. Thật ra khi nói về lòng tin vào sự sống
lại trong thư gửi tín hữu Corintô, thánh nhân đã so sánh giữa nguyên tổ và Chúa Kitô:
”Qủa thế, như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên
đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống... Con người đầu tiên là Ađam được
dựng nên thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống” (1 Cr 15,22.45).
Với văn bản thư gửi tín hữu Roma chương 5,12-21 sự so sánh giữa Đức Kitô và Ađam trở
thành chi tiết và soi sáng hơn: thánh Phaolô đi lại con đường lịch sử cứu độ từ Ađam
cho tới Lề Luật và từ Lề Luật cho tới Đức Kitô. Trọng tâm của lịch sử đó không phải
là Ađam với các hậu qủa tội lỗi của nhân loại cho bằng Đức Giêsu Kitô và ơn thánh,
qua Người được đổ tràn đầy trên nhân loại, vượt xa tội lỗi của Ađam và các hậu quả
của nó trên cuộc sống con người. Vì thế thánh Phaolô mới kết luận: ”Nhưng ở đâu tội
lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20).
Trong lòng
tin của Giáo Hội ý thức tín điều về tội tổ tông đã chín mùi vì nó gắn liền với tín
điều về ơn cứu rỗi và sự tự do trong Chúa Kitô. Do đó không được đề cập tới tội của
Ađam và của nhân loại tách rời khỏi bối cảnh ơn cứu rỗi trong chân trời của sự công
chính hóa trong Đức Kitô.
Nhưng mà tội tổ tông là gì, thánh Phaolô và Giáo
Hội dậy gì về tội tổ tông? Nhiều người cho rằng dưới ánh sáng lịch sử tiến hóa, ngày
nay không còn có chỗ cho một tội ban đầu rồi lan tràn trên toàn thế giới nữa. Và hậu
qủa là cả vấn đề liên quan tới sự cứu rỗi và Đấng Cứu Thế cũng không còn nền tảng
nữa. Như thế có tội tổ tông hay không?
Để có thể đưa ra câu trả lời chúng
ta phải phân biệt hai khía cạnh: một khía cạnh kinh nghiệm cụ thể mà mọi người có
thể sờ mó được, và một khía cạnh nhiệm mầu liên quan đến nền tảng bản thể học của
sự kiện này.
Dữ kiện kinh nghiệm cụ thể đó là sự mâu thuẫn trong chính chúng
ta. Một đàng mọi người đều biết là mình phải làm điều thiện, và tận sâu thẳm con người
muốn làm điều thiện. Nhưng đồng thời nó cũng cảm thấy sức thúc đẩy làm ngưực lại,
đi theo con đường của sự ích kỷ, bạo lực, chỉ làm điều nó ưa thích, cả khi biết làm
như thế là chống lại sự thiện, chống lại Thiên Chúa và tha nhân. Trong thư gửi tín
hữu Roma thánh Phaolô diễn tả nó như sau: ”Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng
làm thì không; thật vậy sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không
muốn thì tôi lại làm” (Rm 7,18-19). Sự mâu thuẫn bên trong con người của chúng ta
đó không phải là một lý thuyết. Mỗi người trong chúng ta đều sống kinh nghiệm này
hàng ngày. Chỉ cần nghĩ tới các tin tức hàng ngày liên quan tới các bất công, bạo
lực, dối trá, trụy lạc thì đủ biết. Chúng ta trông thấy nó mỗi ngày: đó là một sự
kiện.
Hậu qủa của quyền lực sự dữ đó trong tâm hồn chúng ta phát triển trong
lịch sử thành một dòng sông bẩn thỉu, làm ô nhiễm địa lý của lịch sử nhân loại. Tư
tưởng gia người Pháp Blaise Pascal đã nói tới một ”bản tính thứ hai” chồng lên bản
tính nguyên thủy của chúng ta. ”Bản tính thứ hai đó” khiến cho sự dữ trở thành bình
thường đối với con người.
Kiểu nói ”đó là nhân bản” có hai nghĩa: nghĩa tốt
ám chỉ điều mà một người phải làm như là người; nghĩa xấu ám chỉ sự gian dối sự dữ
là điều bình thường. Sự dữ xem ra đã trở thành bản tính thứ hai của con người. Chính
sự mâu thuẫn đó của con người, của lịch sử khơi dậy ước mong ơn cứu độ. Thật thế,
ước mong thế giới này thay đổi là lời hứa tạo dựng một thế giới công bằng hòa bình,
tốt lành hiện diện khắp nơi. Chẳng hạn trong lãnh vực chính trị: mọi người đều nói
tới việc cần thiết phải thay đổi thế giới, phải tạo ra một thế giới công bằng hơn.
Nó diễn tả ước mong một sự giải thoát khỏi sự mẫu thuẫn nội tại đó.
Đức Thánh
Cha giải thích sự hiện hữu của sự dữ như sau:
Như thế sự kiện quyền lực sự
dữ trong trái tim và trong lịch sử con người là điều không thể chối cãi được. Vấn
đề đó là phải giải thích nó thế nào đây? Ngoài lòng tin Kitô ra, trong lịch sử tư
tưởng có một mô thức giải thích chính, với các thay đổi khác nhau. Mô thức đó nói
rằng con người mâu thuẫn, nó mang trong chính mình sự thiện cũng như sự dữ. Vào thời
xa xưa người ta cho rằng ngay từ nguyên thủy đã có hai nguyên lý thiện ác bằng nhau.
Đó là thuyết nhị nguyên không thể thắng vượt được. Sự mâu thuẫn trong con người chỉ
là phản ảnh sự trái nghịch của hai nguyên lý đó. Trong quan điểm của thuyết tiến hóa
vô thần thì ngay từ ban đầu con người đã mang trong mình sự thiện và sự ác rồi. Và
lịch sử nhân loại chỉ phát triển mô thức đã có sẵn trong toàn sự tiến triển có trước.
Điều mà tín hữu Kitô gọi là tội tổ tông thật ra chỉ là tính cách trộn lẫn sự thiện
và sự ác thuộc bản chất con người. Đây là một quan điểm tuyệt vọng: nếu như thế thì
sẽ không thể nào chiến thắng được sữ dữ. Và sau cùng thì chỉ có lợi lộc riêng tư là
quan trọng. Và mỗi tiến bộ đều cần phải trả bằng một dòng sông sự dữ, và ai muốn phục
vụ tiến bộ thì phải trả giá mắc mỏ đó. Nói cho cùng, chính trị được định hướng theo
các tiền đề đó: và chúng ta trông thấy các hậu qủa của nó. Rốt cuộc tư tưởng này chỉ
có thể tạo ra thái độ sống buồn sầu và vô luân.
Lòng tin như thánh Phaolô
trình bầy xác nhận sự tranh đua giữa hai bản chất đó và và sự kiện bóng dáng sự dữ
đè nặng trên thụ tạo. Chương 7 và chương 8 của thư gửi tín hữu Roma khẳng định sự
hiện hữu của sự dữ. Trái ngược với hai thuyết nhị nguyên và nhất nguyên luận thê lương
trên đây, lòng tin cho chúng ta biết có hai mầu nhiệm ánh sáng và một mầu nhiệm bóng
tối, bị vây bọc bởi hai mầu nhiệm ánh sáng. Mầu nhiệm ánh sáng thứ nhất cho biết rằng
không có hai nguyên lý, một tốt một xấu, mà chỉ có một nguyên lý là Thiên Chúa Tạo
Hóa, và đó là nguyên lý tốt, không có bóng tối. Vì thế bản thể không phải là một trộn
lẫn lành dữ, mà tự nó là tốt và do đó hiện hữu là tốt, sống là tốt. Đó là tin vui
do lòng tin loan báo. Chỉ có một suối nguồn tốt lành là Đấng Tạo Hóa. Và vì vậy sống
là một sự thiện, là nam hay nữ là một điều tốt lành, và sự sống tốt lành. Thế rồi
có một mầu nhiệm của tối tăm. Sự dữ không đến từ suối nguồn của bản thể, không có
từ nguyên thủy. Sự dữ đến từ một sự tự do được tạo dưng, một sự tự do bị lạm dụng.
Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Làm sao có thể xảy ra điều đó được? Đây
là điều tối tăm khó hiểu. Sự dữ không có luận lý. Chỉ có Thiên Chúa và sự thiện là
có luận lý, vì là ánh sáng. Sự dữ là điều bí nhiệm. Các hình ảnh lớn trong chương
3 sách Sáng Thế: hai cây sự sống và cây biết lành biết dữ, con rắn, con người tội
lỗi chỉ giúp chúng ta đoán ra, nhưng không giải thích cái vô luận lý trong chính nó.
Chúng ta chỉ có thể ước đoán chứ không giải thích hay kể lại như một sự kiện, vì nó
là một thực tại sâu thăm hơn. Nó là một mầu nhiệm của tối tăm. Nhưng tiếp theo là
một mầu nhiệm ánh sáng khác: đó là sự dữ là một suối nguồn bị chế ngự. Với ánh sáng
của Ngài Thiên Chúa mạnh mẽ hơn. Vì thế có thể thắng vượt được sự dữ. Do đó con người
có thể được chữa lành. Sách Khôn Ngoan nói rằng: ”Chúa đã dựng nên các quốc gia có
thể chữa lành” (1,14 Volg).
Và điểm sau cùng đó là con người không chỉ có
thể được chữa lành, mà đã thực sự được chữa lành. Thiên Chúa đã bước vào lịch sử loài
người và chữa lành con người. Ngài đã chống lại suối nguồn dơ bẩn bằng suối nguồn
tinh tuyền. Đức Giêsu Kitô bi đóng đanh, Ađam mới, dùng con sông ánh sáng chống lại
con sông dơ bẩn. Và con sông này hiện diện trong lịch sử: chúng ta trông thấy nó nơi
các thánh lớn nhỏ và các tín hữu đơn sơ. Chúng ta thấy dòng sông ánh sáng chảy ra
từ Chúa Kitô hiện diện và mạnh mẽ.
Mùa Vọng là thời gian của sự hiện diện
và chờ đời. Ánh sáng hiện diện. Chúa Kitô là Ađam mới ở với chúng ta và ở giữa chúng
ta. Chúng ta phải mở mắt ra để trông thấy ánh sáng và bước vào dòng sông ánh sáng.
Nhất là chúng ta phải biết ơn sự kiện Thiên Chúa đã bước vào lịch sử như suối nguồn
sự thiện. Nhưng Mùa Vọng cũng là thới gian của chờ đợi. Đêm đen của sự dữ vẫn còn
dầy đặc. Vì thế cùng với dân Chúa chúng ta cầu xin ”Trời cao hãy đổ sương xuống” và
tha thiết cầu xin: lậy Chúa Giêsu xin hãy đến, xin hãy đến trao ban sức mạnh cho ánh
sáng và sự thiện; xin hãy đến ở những nơi có sự thống trị của dối trá, không biết
đến Thiên Chúa, của bạo lực và bất công. Lậy Chúa Giêsu, xin hãy đến ban sức mạnh
cho sự thiện trong thế giới này và giúp chúng con trở thành những người trao ban ánh
sáng, tạo dựng hòa bình và làm chứng cho sự thật.
Sau khi chúc mọi người Mùa
Vọng sốt mến Đức Thánh Cha đã cất kinh lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi
người.