Đức Giáo Hoàng Pio XI (1922-1939) có tên thật là Achille Ratti (1857-1939).
Ngài làm Chủ Chăn Giáo Hội Hoàn Vũ giữa hai thế chiến (1914-1918 và 1939-1945). Triều
đại 17 năm giáo hoàng của ngài thật cam go nhưng đánh dấu nhiều thành tích đáng kể.
Vừa lên ngôi, Đức Pio XI thành lập phong trào Công Giáo Tiến Hành. Năm 1929, ngài
ký kết với chính phủ Ý Hòa Ước Laterano. Hòa Ước nhìn nhận sự độc lập của lãnh thổ
Vatican. Sau khi Hòa Ước ký kết, Đức Pio XI giao cho ông Guglielmo Marconi (1874-1937)
- bác học người Ý - nhiệm vụ thành lập Đài Phát Thanh, nằm trong lãnh thổ quốc gia
thành phố Vatican. Đài Phát Thanh Vatican khai trương ngày 12-2-1931.
Chính
Đức Thánh Cha Pio XI đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trong Giáo Hội Công Giáo. Nhưng
điểm gay go nhất trong cương vị giáo hoàng là việc ngài phải đương đầu với ba nhà
độc tài.
Trước tiên là Benito Mussolini (1884-1945), người khởi xướng chủ
nghĩa phát-xít - tức là chủ nghĩa quốc gia quá khích - tại Ý. Tiếp đến là Adolf Hitler
(1889-1945), kẻ cầm đầu bọn đức-quốc-xã, muốn làm bá chủ Âu Châu và ra lệnh tiêu diệt
người Do thái. Sau cùng là Iossif Staline (1879-1953), cha đẻ của chủ thuyết cộng
sản vô thần tại Nga. Cả ba nhà độc tài đều sống đồng thời với Đức Pio XI. Và lịch
sử ghi lại rõ ràng:
- Đức Pio XI là vị Giáo Hoàng từng tố giác Staline
và những cuộc bách hại tôn giáo của ông ta tại Nga. Đức Pio XI là vị Giáo Hoàng dám
đương đầu với Hitler và từng chống lại Mussolini.
Nhưng vị giáo hoàng
”gan-lì” ấy lại rất có lòng sùng kính các Thánh Thiên Thần Bản Mệnh. Ngày 2-9-1934
- lúc đó là lễ kính Thánh Thiên Thần Bản Mệnh - Đức Pio XI tiếp kiến ”Thiếu Nhi Công
Giáo Ý” tại nội thành Vatican.
Trong buổi gặp gỡ thân mật, Đức Thánh Cha nói
với các em về Thánh Thiên Thần Bản Mệnh, và dĩ nhiên ngài cũng nói về Thánh Thiên
Thần Hộ Thủ của ngài. Trước tiên, Đức Pio XI lập lại lời khuyên dạy của thánh Bernard
thành Clairvaux (1090-1153):
- Con đừng bao giờ quên bạn đồng hành này. Con
hãy chứng tỏ cho ngài thấy lòng con kính trọng sự hiện diện của ngài, sự quảng đại
và lòng khoan hậu của ngài cũng như lòng tin tưởng và sự phù trợ ngài dành cho con.
Thật vậy, Thiên Thần Chúa đồng hành với chúng ta bằng sự hiện diện của ngài. Ngài
yêu-thương giúp-đỡ bảo-vệ chúng ta. Vì thế chúng ta có bổn phận đáp lại lòng nhân
hậu của Thánh Thiên Thần Bản Mệnh. Đừng bao giờ lãng quên sự hiện diện của ngài. Đừng
bao giờ làm cho các ngài phải xấu hổ đỏ mặt vì chúng ta. Dầu còn thơ trẻ, dầu đã trưởng
thành, chúng ta đừng bao giờ làm phiền lòng bạn đồng hành luôn yêu thương chăm sóc
chúng ta. Đừng bao giờ làm điều gì mà chúng ta không dám làm trước mặt mẹ cha hoặc
trước mặt các bạn đồng lớp, vì khắp mọi nơi và trong mọi lúc, Thánh Thiên Thần Bản
Mệnh luôn có mặt tại đó.
Chẳng những ngài hiện diện, nhưng sự hiện diện của
ngài còn chan hòa tình thương trìu mến. Đối lại, cũng phải bày tỏ cho Thánh Thiên
Thần Bản Mệnh tình thương mến chúng ta dành cho ngài. Chúng ta phục tùng và mộ mến
ngài, hơi gần giống như lòng kính mến chúng ta dành cho THIÊN CHÚA. Chúng ta bày tỏ
lòng phục tùng đạo đức qua việc khẩn cầu Thánh Thiên Thần Bản Mệnh mỗi ngày, ban sáng
ban tối và rải rác trong ngày. Chúng ta làm như thế cũng giống như Đức Thánh Cha đây,
mỗi ngày, vào lúc bắt đầu và khi kết thúc một ngày, Cha đều kêu cầu Thánh Thiên Thần
Bản Mệnh của Cha và hơn thế nữa, dọc theo ngày Cha lập lại lời kêu cầu này, nhất là
lúc gặp chuyện rắc rối và khó khăn, những chuyện mà thường không thiếu trong ngày
sống của một vị giáo hoàng.
Cha cảm thấy và ghi nhận rằng thánh Thiên Thần
Hộ Thủ của Cha luôn hiện diện bên cạnh Cha, sẵn sàng trợ lực và giúp đỡ Cha. Các con
thân mến, đó cũng là điều các Thánh Thiên Thần Bản Mệnh làm cho các con. Các ngài
luôn có mặt bên các con, tràn đầy tình thương và luôn luôn tỉnh thức canh phòng cho
các con. Điều xác tín được một vị hoàng tử của trời cao canh giữ phải gợi lên trong
chúng ta không những lòng kính trọng và sùng mộ, mà còn phải khiến chúng ta có lòng
tin tưởng tuyệt đối nữa. Lòng tin tưởng thật cần thiết, nhất là phải được biểu lộ
mỗi khi chúng ta thi hành những trách nhiệm nặng nề hoặc mỗi khi gặp khó khăn để tuân
giữ một điều đã dốc lòng. Chính đó là lúc phải đặt lòng tin tưởng nơi sự trợ giúp,
bênh đỡ và bảo vệ đặc biệt của Thánh Thiên Thần Bản Mệnh.
... Xin nhường lời
cho Cha Ermenegildo Pellegrinetti (1876-1943) nói về lòng tin tưởng
của Đức Giáo Hoàng Pio XI nơi sự trợ giúp của Thánh Thiên Thần Bản Mệnh. Cha Pellegrinetti
(cựu bí thư của Đức Cha Achille Ratti) từng là Sứ Thần Tòa Thánh tại Yugoslavi rồi
được thăng hồng y.
Lúc ấy là mùa hè 1918, vài tháng trước khi kết thúc thế
chiến thứ nhất. Quân đội Đức xâm chiếm một phần lãnh thổ Ba Lan. Thời gian ngắn trước
biến cố này, Đức Giáo Hoàng Benedetto XV (1914-1922) chỉ định Đức Cha Achille Ratti
làm Kinh Lược Tòa Thánh tại Ba Lan. Vừa nhận nhiệm sở, Đức Kinh Lược Ratti đến viếng
thăm vị tổng lãnh sự Đức tại Varsava là tướng Von Beseler, từng chiến thắng hai trận
đánh tại Anvers và Modelin.
Trước mỗi cuộc gặp gỡ khó khăn, Đức Cha Ratti
có thói quen đặc biệt cầu nguyện với ”Đức Mẹ Chỉ Bảo Đàng Lành” và với vị Thiên Thần
Bản Mệnh của người ngài sẽ đối thoại. Chiếu theo quốc tịch Ý thì Đức Cha Ratti thuộc
về dân tộc đối nghịch với dân tộc Đức. Do đó, cứ sự thường, đây là cuộc gặp gỡ vô
cùng tế nhị, điểm bất lợi nhiều hơn điểm thuận lợi.
Vậy mà cuộc gặp gỡ diễn
ra cách hết sức tốt đẹp. Trong cuộc nói chuyện với tướng Von Beseler, Đức Cha Ratti
có một cung cách thật ngay thẳng, thận trọng dùng ngôn từ vô cùng đắn đo, hòa nhã
và sau cùng, giọng nói của vị Kinh Lược Tòa Thánh vừa trang trọng vừa nhẹ nhàng đến
độ chinh phục lòng tổng lãnh sự người Đức.
Nếu Đức Cha Achille Ratti không
đạt mọi ước nguyện, thì ít ra ngài cũng xóa được thành kiến nơi tướng Von Beseler,
làm giảm bớt mức độ chống đối và đạt một số lời hứa hẹn của chính quyền Đức. Bao nhiêu
đó cũng đã là khá lắm rồi!
Ba năm sau - 1921 - Đức Giáo Hoàng Benedetto XV
lại chỉ định Đức Cha Achille Ratti làm Tổng Giám Mục Milano (Bắc Ý). Ngày đặt chân
đến Milano để nhận chức vụ chủ chăn một giáo phận vừa rộng lớn vừa quan trọng, Đức
Tổng Giám Mục Ratti quỳ xuống hôn đất Milano, lãnh thổ mà THIÊN CHÚA giao phó cho
ngài. Đồng thời, Đức Cha Ratti khẩn cầu sự trợ giúp của Thánh Thiên Thần có nhiệm
vụ gìn giữ giáo phận.
Lòng tin tưởng nơi sự phù trợ của Thánh Thiên Thần Bản
Mệnh tiếp tục theo mãi Đức Cha Achille Ratti cho đến khi ngài được bầu làm Chủ Chăn
Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ vào năm 1922, với danh hiệu là Pio XI.
... Chính
vị Bí Thư Đức Pio XI là Cha Carlo Confalonieri (1893-1986) - sau đó được thăng
hồng y và là Tổng Trưởng Bộ Giám Mục - làm chứng về điểm này.
Đức Pio XI đặc
biệt sùng mộ các Thánh Thiên Thần Bản Mệnh. Dĩ nhiên trước tiên đối với vị Thiên Thần
Hộ Thủ của ngài. Tiếp đến là Thiên Thần Bản Mệnh các vị chủ chăn các Giáo Hội địa
phương và các vị Sứ Thần, Khâm Sứ, Kinh Lược Tòa Thánh. Mỗi khi tiếp kiến một giám
chức nào, trước khi vị đó lên đường thi hành công tác do Ngài chỉ định, Đức Pio XI
thường từ giã bằng lời cầu chúc trích trong Kinh Thánh Cựu Ước từ Sách Tôbia:
- Xin THIÊN CHÚA trên trời gìn giữ ngài đi đường bình an và xin Thiên
Thần Chúa tháp tùng ngài để phù hộ ngài (5,17).
Đức Cha Angelo
Roncalli (1881-1963) - tức là Đức Giáo Hoàng Chân Phúc Gioan XXIII (1958-1963) - cũng
làm chứng về lòng sùng mộ của Đức Pio XI đối với các Thánh Thiên Thần Hộ Thủ.
Tháng
3 năm 1925, Đức Pio XI chỉ định Đức Cha Roncalli làm Kinh Lược Tòa Thánh tại Bulgari
và 9 năm sau, lại chỉ định làm Khâm Sứ Tòa Thánh tại Thổ Nhĩ Kỳ và Hy Lạp. Tại các
nước này, tín hữu Công Giáo chỉ chiếm thiểu số.
Hồi ấy, tinh thần đại kết
cũng chưa được rộng mở bao nhiêu. Do đó, sứ vụ của Đức Cha Angelo Roncalli quả thật
khó khăn và tế nhị. Một ngày, một trong những chuyến về viếng thăm Tòa Thánh và gặp
gỡ Đức Giáo Hoàng, Đức Cha Roncalli được Đức Pio XI ”vén mở màn bí mật” cho biết một
phương thế tuyệt hảo để chu toàn sứ vụ Khâm sứ Tòa Thánh tại các nước vùng Balcan.
Đó là: Cầu khẩn sự trợ giúp của các Thánh Thiên Thần Bản Mệnh. Đức Pio XI nói với
Đức Cha Roncalli:
- Sự hiện diện của các Thiên Thần Bản Mệnh là suối nguồn
niềm vui cho chúng ta, những người được các Thiên Thần gìn giữ phù hộ.
Chính các Thiên Thần san bằng các khó khăn và xóa bỏ các chống đối. Khi tôi
phải nói chuyện với người nào mà tôi biết là rất khó đạt thông cảm và hòa điệu,
tôi liền cầu cứu với Thánh Thiên Thần Bản Mệnh của tôi. Tôi xin Thiên Thần Bản Mệnh
của tôi thương lượng với Thiên Thần Bản Mệnh của vị tôi sẽ gặp. Một khi đường dây
giữa hai Thiên Thần Bản Mệnh được thiết lập thì cuộc trao đổi giữa giáo
hoàng với vị khách sẽ diễn ra trong tốt đẹp.
(Frédéric de Lama, ”Les
Anges”, Editions Christiana, 1987, trang 81-83 + Georges Huber, ”Mon Ange marchera
devant toi”, Editions Saint-Paul, 1975, trang 18-21)