Nguyên văn Sứ điệp Thượng HĐGM kỳ
thứ 12 gửi Cộng đoàn Dân Chúa
Mến chúc anh chị em ” bình an cũng như bác ái và niềm tin từ Thiên
Chúa Cha và Chúa Giêsu Kitô. Nguyện xin ân sủng ở cùng tất cả những người
yêu mến Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta bằng một tình yêu không hư
nát ”. Với lời chào nồng nhiệt và đầy yêu thương như thế, thánh Phaolô đã kết
thúc Thư ngài gửi cho các tín hữu Kitô thành Ephêsô (6,23-24). Cũng với những lời
ấy chúng tôi, các nghị phụ Thượng Hội Đồng Giám Mục, nhóm khóa họp thường kỳ thứ 12
tại Roma, dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha Biển Đức 16, mở đầu sứ điệp này gửi
tới chân trời mênh mông của tất cả những người thuộc các miền trên thế giới đang theo
Chúa Kitô như những môn đệ của Ngài và tiếp tục yêu mến Chúa bằng tình yêu không hư
nát. Chúng tôi tái đề nghị với họ tiếng nói và ánh sáng của Lời Chúa, lập lại lời
mời gọi xưa kia: ” Lời này rất gần với bạn, ở nơi miệng và trong
con tim của bạn, để bạn mang ra thực hành ” (Dnl 30,14). Chính Thiên
Chúa sẽ nói với mỗi người: ” Hỡi con người, tất cả những lời Ta nói
với ngươi, hãy đón nhận vào lòng và hãy lắng nghe bằng
tai ” (Ed 3,10). Giờ đây, chúng tôi đề nghị với tất cả một cuộc hành trình thiêng
liêng qua 4 giai đoạn, từ vĩnh cửu vô cùng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến tận gia
cư và dọc theo nẻo đường thành thị của chúng ta”.
Tiếng nói
của Lời: Mạc Khải
1. ” Thiên Chúa
đã nói với các ngươi giữa lửa hồng: các ngươi nghe tiếng
nói, nhưng các ngươi không thấy hình dạng nào, không có gì khác ngoài tiếng
nói !” (Dnl 4,12). Chính Môisê nói, khi gợi lại kinh nghiệm mà Israel đã trải
qua trong cảnh cô độc cam go ở sa mạc Sinai. Tại đó, Chúa tự giới thiệu không phải
như một ảnh hay hình nhân, hoặc tượng giống như con bò vàng, nhưng “như một âm thanh
của lời nói”. Đó là một tiếng nói xuất hiện ngay từ đầu công trình tạo dựng
khi màn thinh lặng của hư vô bị xé toang: ” Từ khởi thủy... Thiên Chúa nói: Hãy
có ánh sáng! Và đã có ánh sáng... Từ khởi thủy đã có Lời..
và Lời là Thiên Chúa.. Tất cả được tạo thành nhờ Người
và nếu không có Người thì chẳng có gì đang hiện hữu
được tạo thành ” (St 1,1.3; Ga 1,1.3). Tạo vật không nảy sinh từ cuộc chiến
giữa các thần minh như huyền thoại cổ xưa của miền Mesopotamie đã dạy, nhưng vạn vật
được tạo thành từ một lời nói chiến thắng hư vô và tạo nên sự hữu. Tác giả Thánh Vịnh
ca lên: ” Từ lời nói của Chúa, trời được tạo thành, từ hơi
thở miệng Ngài tất cả đạo binh của Ngài.. vì Ngài đã
nói và mọi sự liền có, Ngài truyền và mọi sự hiện hữu” (Tv33,6.9). Và Thánh Phaolô
về sau lập lại: ” Thiên Chúa ban sự sống cho kẻ chết và kêu gọi những sự
chưa có đi vào hiện hữu” (Rm 4,17). Thế là chúng ta có được mạc khải đầu
tiên ”có tính chất vũ trụ” làm cho toàn thể thụ tạo giống như một trang bao la mở
ra trước toàn thể nhân loại, và trong đó ta có thể đọc được sứ điệp của Đấng Tạo Hóa:
” Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo
việc tay Ngài làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với
đêm kia. Chẳng một lời lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã
dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời
góc biển ” (Tv 19,2-5).
2. Nhưng Lời Chúa cũng ở nơi căn cội
của lịch sử loài người . Người nam và người nữ là ” hình ảnh
giống Thiên Chúa ” (St 1,27) và vì thế họ mang trong mình dấu vết Thiên Chúa,
họ có thể đối thoại với Đấng Tạo Hóa và cũng có thể xa lìa và chối bỏ Ngài do tội
lỗi. Bấy giờ, Lời Chúa cứu vớt và xét xử, thấu nhập vào các tế bào lịch sử với những
thăng trầm và các biến cố: ” Ta đã thấy, Ta đã thấy lầm than
của dân Ta ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng kêu của họ.. phải, ta biết những
lo âu của họ. Ta xuống để giải thoát họ khỏi tay người
Ai Cập và đưa họ từ miền đất này tiến về một miền
đất xanh tươi và rộng lớn ” (Xh 3,7-8). Vì thế có sự hiện
diện của Chúa trong những biến cố của loài người, các biến cố này, qua hoạt động của
vị Chúa Tể lịch sử, được ghi vào trong một ý định cứu độ cao cả hơn, để ” mọi
người được cứu thoát và nhận biết chân lý ” (1 Tm 2,4).
3. Vì vậy Lời Chúa, hiệu năng, sáng tạo và cứu độ là nguồn gốc của vạn vật
và lịch sử, công trình sáng tạo và cứu chuộc. Chúa đến gặp nhân loại và tuyên bố:
”Ta đã nói và ta đã làm!” (Ed 37,14). Nhưng còn một giai
đoạn nữa mà tiếng nói của Chúa vượt qua: đó là giai đoạn lời được viết ra, Graphé
hoặc Graphai, các Sách Thánh, như Tân Ước nói với chúng ta điều đó. Ông Môisê
đã từ đỉnh núi Sinai đi xuống ”tay cầm hai bia đá ghi chứng từ, những
tấm bia được viết hai mặt. Những tấm bia đó là công trình
của Thiên Chúa, chữ viết là bút tích của Thiên Chúa ” (Xh 32, 15-16). Và chính
Môisê truyền cho Israel phải giữ gìn và viết lại những ”bia chứng từ ấy”: ” Ngươi
hãy viết trên đá tất cả những lời của luật này, bằng chữ thật
rõ ràng” (Dnl 27,8).
”Kinh Thánh là 'chứng từ' của Lời Chúa dưới hình
thức chữ viết, là văn kiện tưởng niệm theo qui luật, lịch sử và văn chương, làm chứng
biến cố mạc khải sáng tạo và cứu độ. Vì thế, Lời Chúa đi trước và đi xa hơn Kinh Thánh,
Kinh Thánh cũng được Thiên Chúa linh hứng, và chứa đựng Lời Chúa hiệu năng (cf 2 Tm
3,16). Chính vì thế, đức tin của chúng ta không có trọng tâm là cuốn Kinh Thánh mà
thôi, nhưng là lịch sử cứu độ và một nhân vật là Chúa Giêsu Kitô, Lời Thiên Chúa nhập
thể làm người và là lịch sử. Vì thế, người đọc Kinh Thánh luôn luôn cần có sự hiện
diện của Chúa Thánh Linh, Đấng dẫn đến chân lý toàn vẹn (Ga 16,13). Đây chính là đại
Truyền Thống, là sự hiện diện hữu hiệu của Thánh Thần chân lý trong Giáo Hội, là người
giữ gìn Kinh Thánh, được Huấn Quyền Giáo Hội giải thích chính Với Truyền thống, ta
đi đến sự hiểu biết, giải thích, thông truyền và làm chứng về Lời Chúa. Chính thánh
Phaolô, khi công bố kinh Tin Kính đầu tiên của Kitô giáo, đã xác nhận mình ”truyền
lại” điều đã nhận được từ Truyền Thống (1 Cr 15,3-5).
II. Khuôn mặt
của Lời Chúa: Đức Giêsu Kitô
4.
Trong nguyên ngữ Hy Lạp, chỉ có 3 từ căn bản: Lógos sarx eghéneto , ”Ngôi Lời/Lời
nhập thể”. Đây không những là cao điểm trong Lời Tựa Tin Mừng theo thánh Gioan (1,14),
một bảo vật quí giá về phương diện thi phú và thần học, nhưng còn là trọng tâm của
đức tin Kitô. Lời vĩnh cửu và thần linh đi vào không gian vào thời gian, nhận lấy
một khuôn mặt và căn cước phàm nhân, đến độ ta có thể đến gần và trực tiếp xin Ngài,
như nhóm người Hy Lạp hiện diện ở thành Jerusalem: ”Chúng tôi muốn thấy
Đức Giêsu ” (Ga 12,20-21). Những lời nói nào không có một khuôn mặt thì
bất toàn, vì không thực hiện đầy đủ cuộc gặp gỡ, như ông Gióp đã nhắc nhớ vào cuối
hành trình tìm kiếm bi thảm của ông: ” Con đã nhận biết Ngài qua
điều Ngài nói, giờ đây mắt con trông thấy Ngài ” (42,5).
Chúa Kitô là ” Lời ở nơi Thiên Chúa và là Thiên Chúa ”, là ” hình
ảnh Thiên Chúa vô hình, được sinh ra trước mọi loài thụ
tạo ” (Cl 1,15); nhưng Ngài cũng là Đức Giêsu thành Nazareth bước đi trên những
nẻo đường trong một tỉnh ngoại biên của đế quốc Roma, Ngài dùng ngôn ngữ địa phương,
biểu lộ những sắc thái của một dân tộc, dân Do thái, và nền văn hóa của dân tộc này.
Vì thế, Chúa Giêsu Kitô đích thực là một con người mong manh và hay chết, là lịch
sử và nhân tính, nhưng cũng là vinh quang, là thần tính, mầu nhiệm: Ngài là Đấng đã
mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa mà chưa ai được thấy (Ga 1,18). Con Thiên Chúa tiếp
tục như thế cả trong thi hài được an táng trong mộ và sự sống lại của Ngài là chứng
cớ sinh động và hữu hiệu về sự kiện ấy.
5. Truyền thống Kitô giáo
thường đặt song song Lời Chúa nhập thể làm người với chính Lời Chúa trở thành sách.
Đó là điều được nói đến trong kinh Tin Kính khi ta tuyên xưng rằng Con Thiên Chúa
”nhập thể làm người do hoạt động của Chúa Thánh Linh trong
lòng Đức Trinh Nữ Maria ”, nhưng cả khi ta tuyên xưng niềm tin nơi
” Chúa Thánh Linh, Đấng đã nói qua các ngôn sứ ”. Công
đồng chung Vatican 2 đã đón nhận truyền thống cổ kính theo đó ” Mình của
Chúa Con là Kinh Thánh được thông truyền cho chúng ta ” - như thánh Ambrosio
đã quả quyết (In Lucam VI, 33) và minh bạch tuyên bố rằng: ” Lời Chúa, được
biểu lộ qua ngôn ngữ người trần, đã trở nên giống ngôn
ngữ loài người, cũng như Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha,
sau khi nhận lấy những yếu đuối của bản tính con người,
đã trở nên giống loài người ” (DV 13).
Thực vậy,
Kinh Thánh cũng là ”xác thể”, là ”chữ” được diễn tả trong những ngôn ngữ đặc thù,
qua những hình thức văn chương và lịch sử, trong những ý niệm gắn liền với một nền
văn hóa cổ xưa, bảo tồn ký ức về những biến cố nhiều khi bi thảm, các trang Kinh Thánh
nhiều khi đầy những vết máu và bạo lực, trong Kinh Thánh vang dội tiếng cười của nhân
loại và những dòng nước mắt chảy dài, cũng như kinh nguyện của những kẻ bất hạnh được
trổi lên và niềm vui của những kẻ yêu nhau. Do chiều kích ”thể xác” này Kinh Thánh
cần có sự phân tích lịch sử và văn chương, theo nhiều phương pháp và lối đề cập vấn
đề khác nhau mà khoa chủ giải Kinh Thánh cung cấp. Mỗi độc giả Kinh Thánh, dù là người
đơn sơ nhất, đều phải có kiến thức tương ứng về Bản Văn thánh, và cần nhớ rằng Lời
Chúa mang hình thức những lời cụ thể, được giải thích và thích ứng để có thể được
nhân loại nghe và hiểu. Đây chính là một công việc cần thiết: nếu không để ý tới điều
đó, người ta có thể rơi vào thái độ chỉ hiểu Kinh Thánh theo nghĩa chữ (fondamentalisme),
thái độ này, trong thực tế, chối bỏ sự nhập thể của Lời Chúa trong lịch sử và không
nhìn nhận rằng Lời được diễn tả trong Kinh Thánh theo ngôn ngữ loài người, và phải
được giải đoán, nghiên cứu và hiểu, và thái độ như thế cũng cố tình không biết rằng
sự linh hứng của Chúa không xóa bỏ căn tính lịch sử và nhân cách riêng của các tác
giả nhân trần. Nhưng Kinh Thánh cũng là Lời vĩnh cửu thần linh và vì thế, Kinh Thánh
đòi hỏi một sự hiểu biết khác, được Thánh Linh ban cho, Ngài là đấng biểu lộ chiều
kích siêu việt của Lời Chúa, hiện diện trong những lời nhân trần.
6.
Đó chính là sự cần thiết của ” Truyền thống sinh động của toàn
thể Giáo Hội” (DV 12) và của đức tin để hiểu Kinh Thánh một cách thống nhất và
trọn vẹn. Nếu ta chỉ dừng lại ở ”chữ viết”, thì Kinh Thánh chỉ là một văn kiện trang
trọng của quá khứ, một chứng từ cao quí về mặt luân lý đạo đức và văn hóa. Đàng khác,
nếu loại bỏ sự nhập thể, thì người ta có thể rơi vào sự lầm lạc duy nghĩa đen (fondamentalistico)
hoặc một thái độ duy linh hay duy tâm lý mơ hồ. Vì vậy, kiến thức về chú giải phải
liên kết chặt chẽ với truyền thống linh đạo và thần học để sự hiệp nhất giữa chiều
kính thần linh và nhân trần của Chúa Giêsu Kitô và của Kinh Thánh không bị phá vỡ.
Trong sự hòa hợp được phục hồi như thế, khuôn mặt của Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trọn
vẹn và giúp chúng ta khám phá một sự hiệp nhất khác, đó là sự hiệp nhất sâu xa và
thâm thúy hơn của Bộ Kinh Thánh, gồm 73 cuốn, nhưng được tháp nhập vào một ”Sổ Bộ”
duy nhất, một cuộc đối thoại duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người, trong một ý định
cứu độ duy nhất. ” Sau khi đã nói với các Tổ Phụ và Ngôn Sứ xưa kia,
nhiều lần và dưới nhiều hình thức, trong những ngày sau hết
này, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Con của Ngài” (Dt 1,1-2). Như thế,
Chúa Kitô chiếu ngược ánh sáng của Ngài vào toàn thể lịch sử cứu độ trước đó và cho
thấy sự hòa hợp, ý nghĩa và đường hướng của lịch sử ấy.
Ngài là dấu ấn,
” Alpha và Omera ” (Kh 1,8) của cuộc đối thoại giữa Thiên Chúa và mọi loài
thụ tạo, được kéo dài trong thời gian và được chứng thực trong Kinh Thánh. Chính dưới
ánh sáng của dấu ấn cuối cùng ấy mà những lời của Môisê và các Ngôn Sứ đạt được ”ý
nghĩa trọn vẹn”, như chính Chúa Giêsu đã nói, trong một buổi chiều mùa xuân, khi Ngài
đi từ Jerusalem đến làng Emmaus, đối thoại với Cléophas và bạn ông, và Ngài giải thích
cho họ ” những gì nói về Ngài trong toàn thể Kinh Thánh” (Lc 24,27). Sở dĩ
như thế vì ở trọng tâm của mạc khải, có Lời Chúa trở thành khuôn mặt, mục đích tối
hậu của kiến thức Kinh Thánh không phải ở ” trong một quyết định
luân lý đạo đức hay một ý tưởng lớn, nhưng
là cuộc gặp gỡ với một biến cố, với một Người, mang lại cho cuộc
sống một chân trời mới và qua đó một hướng đi quyết
định ” (Deus caritas est, 1).
Căn
nhà của Lời Chúa: Giáo Hội
Như sự khôn
ngoan của Thiên Chúa trong Cựu Ước đã xây nhà trong thành thị của những người nam
nữ và đặt nhà ấy trên 7 cột (cf Cn 9,1), cũng vậy Lời Chúa có nhà trong Tân Ứơc: chính
Giáo Hội có khuôn mẫu ở trong cộng đồng mẹ Jerusalem, Giáo Hội được xây dựng trên
Phêrô và các Tông Đồ, và ngày nay qua các Giám Mục hiệp thông với Đấng Kế Vị thánh
Phêrô, tiếp tục là người bảo tồn, loan báo và giải thích Lời Chúa (cf LG 13). Thánh
Luca, trong Tông Đồ Công Vụ (2,42), đã phác họa cấu trúc Giáo Hội dựa trên 4 cột trụ
lý tưởng, ngày nay vẫn còn được các cộng đoàn Giáo Hội, với những hình thức khác nhau,
làm chứng: ”Họ chuyên cần lắng nghe lời dạy của các Tông Đồ, trung
thành với niềm hiệp thông huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện”.
7. Trước tiên là didaché, giáo huấn Tông Đồ, tức là việc rao giảng Lời
Chúa. Thánh Phaolô nhắn nhủ chúng ta rằng ” đức tin đến từ
việc lắng nghe và lắng nghe ở đây là nghe Lời Chúa ” (Rm 10,17).
Từ Giáo Hội nảy sinh tiếng nói của người công bố trình bày cho tất cả mọi người ”Kérygma”,
tức là sự loan báo tiên khởi và cơ bản mà chính Chúa Giêsu đã loan báo khi Ngài mới
bắt đầu sứ vụ công khai: ” Thời giờ đã mãn, và nước
Chúa gần kề; anh chị em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng ” (Mc 1,15). Các tông
đồ loan báo sự khai mạc Nước Thiên Chúa và đó là sự can thiệp quyết định của Chúa
trong lịch sử nhân loại, các vị công bố cái chết và sự sống lại của Chúa Kitô: ”
Không có ơn cứu độ nơi người nào khác: thực vậy,
dưới bầu trời này, không có danh xưng nào khác được ban
cho loài người trong đó có thiết định rằng
chúng ta được cứu thoát ” (Cv 4,12). Kitô hữu làm chứng về niềm hy vọng
này ”một cách dịu dàng, tôn trọng và với lương tâm ngay chính”, nhưng
cũng sẵn sàng chịu liên lụy và bị đảo lộn vì cơn lốc của thái độ từ chối và bách hại,
với ý thức rằng ” chẳng thà chịu đau khổ khi làm điều
thiện hơn là làm điều ác ” 1 Pr 3,16-17).
Rồi trong
Giáo Hội, cũng vang lên lời huấn giáo : việc huấn giáo này nhắm đào sâu nơi
Kitô hữu, ”mầu nhiệm Chúa Kitô dưới ánh sáng Lời Chúa để
toàn thể con người được ánh sáng ấy chiếu tỏa ” (Gioan
Phaolô 2, Catechesi tradendae, 20). Nhưng tột đỉnh của việc rao giảng là ở
nơi bài giảng mà ngày nay đối với nhiều tín hữu Kitô, đó là lúc quan trọng
chủ yếu để gặp gỡ với Lời Chúa. Trong việc giảng, thừa tác viên cũng phải trở thành
ngôn sứ. Thực vậy, vị giảng thuyết phải có ngôn ngữ rõ ràng, quyết liệt và có chất
lượng, không những ”loan báo một cách thế giá những công trình kỳ diệu của Thiên
Chúa trong lịch sử cứu độ” (SC 35), những công trình được trình
bày trước tiên qua việc đọc một cách rõ ràng và sinh động bản văn Kinh Thánh mà phụng
vụ đề nghị, nhưng cũng phải thời sự hóa những công trình ấy trong thời đại thính giả
đang sống và làm nảy sinh nơi tâm hồn họ câu hỏi về sự hoán cải và sự dấn thân quyết
liệt: ” Chúng tôi phải làm gì đây ?” (Cv 2,37).
Vì vậy,
việc loan báo, huấn giáo và giảng thuyết đòi phải đọc, hiểu, diễn nghĩa và giải thích,
một sự can dự của tâm trí trong đó. Trong việc giảng thuyết có hai chuyển động. Chuyển
động thứ nhất, ta đi ngược tới căn cội của các đoạn Sách Thánh, các biến cố, những
câu nói tạo nên lịch sử cứu độ, để hiểu chúng trong ý nghĩa và sứ điệp của chúng.
Chuyển động thứ hai ta đi xuống hiện tại, tới cuộc sống thực tế của người nghe và
đọc, luôn luôn dưới ở dưới ánh sáng của Chúa Kitô vốn là sợi dây rạng ngời nhắm thống
nhất toàn thể Kinh Thánh. Đó là điều mà chính Chúa Giêsu đã làm - như đã nói - trong
hành trình từ Jerusalem đến Emmaus, khi tháp tùng hai môn đệ của Ngài. Đó cũng là
điều mà sau này Thầy Phó Tế Philiphê đã làm trên đường từ Jerusalem đến Gaza, khi
Thầy bắt chuyện với một quan chức người Ethiopie: ” Ông có hiểu điều
ông đang đọc không ?.” và ông đáp: ” Làm sao tôi có thể hiểu nếu không
có ai chỉ dẫn cho tôi ?” (Cv 8,30-31). Và mục đích nhắm tới là gặp gỡ trọn vẹn
với Chúa Kitô trong bí tích. Và đó là cột trụ thứ hai nâng đỡ Giáo Hội là nhà của
Lời Chúa”.
8. Cột trụ này là việc Bẻ Bánh . Cảnh tượng Emmaus
(cf Lc 24,13-35) một lần nữa lại là tấm gương và diễn lại điều xảy ra hằng ngày trong
các thánh đường của chúng ta: tiếp nối bài giảng của Chúa Giêsu về Môisê và các ngôn
sứ, là việc Bẻ Bánh Thánh Thể tại bàn ăn. Đó chính là lúc đối thoại thân tình của
Thiên Chúa với dân của Ngài, là hành vi giao ước mới được ký kết trong máu Chúa Kitô
(cf Lc 22,20), là công trình tột đỉnh của Ngôi Lời, Đấng hiến mình làm lương thực
trong thân thể chịu hiến tế, là nguồn mạch và là tột đỉnh đời sống và sứ mạng của
Giáo Hội. Trình thuật Tin Mừng về bữa Tiệc Ly, tưởng niệm hy tế của Chúa Kitô, khi
được công bố trong Thánh Lễ, trong lời cầu xin Chúa Thánh Linh trở thành biến cố và
bí tích. Chính vì thế, Công đồng chung Vatican 2 đã tuyên bố trong một đoạn rất xúc
tích rằng: ” Giáo Hội luôn tôn kính Kinh Thánh như đã tôn kính chính
Mình Chúa Kitô, Giáo Hội không bao giờ bỏ qua, nhất là trong phụng vụ thánh,
mà không nuôi dưỡng mình bằng Bánh Sự Sống nơi bàn tiệc Lời
Chúa cũng như bằng Mình Chúa Kitô và trao ban cho các tín hữu ” (DV 21).
Vì vậy, cần phải đưa trở lại vị trí trung tâm đời sống Kitô giáo ”phụng vụ Lời
Chúa và phụng vụ Thánh Thể, vốn được liên kết chặt chẽ với nhau
đến độ họp thành một hành vi thờ phượng duy nhất
” (SC 56)
9. Cột trụ thứ ba của tòa nhà thiêng liêng Giáo Hội,
nhà của Lời Chúa, là kinh nguyện được dệt bằng ”các ca vịnh, thánh ca và
những bài ca tinh thần” (Cl 3,16) như thánh Phaolô đã nói. Phụng vụ các giờ kinh
dĩ nhiên chiếm chỗ đứng ưu tiên, vì là kinh nguyện tuyệt hảo của Giáo Hội, nhắm phân
nhịp ngày và mùa trong năm Kitô giáo, cung cấp lương thực thiêng liêng hàng ngày cho
các tín hữu, nhất là với bộ thánh vịnh. Bên cạnh phụng vụ này và các buổi cử hành
chung Lời Chúa, tuyền thống còn du nhập ”lectio divina”, tức là việc đọc và
cầu nguyện trong Thánh Linh, có khả năng mở ra cho tín hữu kho tàng Lời Chúa, và cũng
tạo nên cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô là Lời Chúa hằng sống.
Phương pháp này
bắt đầu bằng việc đọc (lectio) đoạn Kinh Thánh, gợi lên một câu hỏi về việc hiểu biết
chính xác nội dung đích thực của văn bản: đoạn Kinh Thánh này tự nó nói lên điều gì
thế? Tiếp đến là suy niệm (meditatio) trong đó câu hỏi là: đoạn Kinh Thánh này nói
gì với chúng ta? Và sau đó là cầu nguyện (oratio), việc làm này giả thiết một câu
hỏi khác: chúng ta nói gì với Chúa để đáp lại Lời Ngài? và cuối cùng là chiêm niệm
(contemplatio) trong đó chúng ta đón nhận như hồng ân của Chúa chính cái nhìn của
Ngài khi nhận xét về thực tại và chúng ta tự hỏi: Chúa đang yêu cầu chúng ta phải
hoán cải tâm trí và cuộc sống như thế nào?
Đứng trước người đọc và cầu
nguyện với Lời Chúa có tấm gương lý tưởng của Mẹ Maria, Mẹ của Chúa, Mẹ ” đã
giữ tất cả những điều ấy và suy niệm trong lòng ” (Lc 2,19;cf 2,51),
nghĩa là - như nguyên bản tiếng Hy lạp chỉ rõ - tìm thấy một mấu chốt sâu đậm liên
kết các biến cố, các hành động và sự việc trong kế hoạch rộng lớn của Thiên Chúa,
tuy rằng bề ngoài chúng có vẻ rời rạc không liên hệ với nhau. Hoặc tín hữu khi đọc
Kinh Thánh cũng có thể nghĩ đến thái độ của bà Maria, em bà Marta, ngồi dưới chân
Chúa và lắng nghe lời ngài, không để cho những giao động bên ngoài hoàn toàn xâm chiếm
trọn tâm hồn, dành không gian tự do cho ”phần tốt hơn” không bị tước
đoạt mất (cf Lc 10, 38-42).
10. Và cột trụ cuối cùng nâng đỡ Giáo
Hội, nhà của Lời Chúa, là ” koinonia, sự hiệp thông huynh đệ
, một danh xưng khác của từ agápe, nghĩa là tình yêu Kitô. Như Chúa Giêsu nhắc nhớ,
để trở thành anh chị em của Ngài, thì cần phải là ” những ngừơi lắng
nghe Lời Chúa và mang ra thực hành ” (Lc 8,21). Lắng nghe đích thực chính là vâng
lời và hành động, là làm cho công lý và tình thương nảy sinh trong cuộc sống, là làm
chứng tá trong cuộc sống và trong xã hội theo đường hướng tiếng gọi của các ngôn sứ,
liên tục nối kết Lời Chúa với cuộc sống, niềm tin và sự ngay chính, việc phụng tự
và sự dấn thân xã hội. Đó là điều Chúa Giêsu đã nhiều lần lập lại, từ lời nhắn nhủ
nổi tiếng trong Bài Giảng trên núi: ” Không phải kẻ nói rằng: Lạy Chúa, Lạy
Chúa! mà được vào nước trời, nhưng là những
người thi hành ý Cha Thầy ở trên trời” (Mt 7,21). Trong câu nói này dường
như vang âm Lời Chúa đã được ngôn sứ Isaia trình bày: ” Dân này chỉ đến
gần Ta bằng lời nói, cầu khẩn Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng xa
Ta” (29,13). Lời cảnh giác này cũng nói về các Giáo Đoàn khi họ không trung thành
lăng nghe Lời Chúa trong tinh thần vâng phục. Vì thế, Lời Chúa phải hiển hiện và có
thể đọc được trên khuôn mặt, và trong đôi tay của tín hữu, như thánh Gregorio Cả đã
gợi ý khi thấy nơi thánh Biển Đức và các vĩ nhân khác của Chúa như những chúng nhân
về sự hiệp thông với Thiên Chúa và với anh em, Lời Chúa được biến thành cuộc sống.
Người công chính và trung thành không phải chỉ ”giải thích” Kinh Thánh, nhưng còn
”triển khai” Kinh Thánh trước mọi người như một thực tại sinh động và được thực hành.
Chính vì thế ” viva lectio, vita bonorum ”, đời sống của những người tốt lành
là một bài đọc/bài học sinh động về Lời Chúa. Thánh Gioan Kim Khẩu đã nhận xét rằng
các tông đồ xuống núi Galilea, nơi mà trước đó các vị đã gặp Chúa Phục sinh, các vị
không mang theo bia đá được viết chữ trên đó như trường hợp ông Môisê: từ lúc đó chính
cuộc sống của các tông đồ đã trở thành sách Tin Mừng sống động.
Trong
nhà của Lời Chúa, chúng ta cũng gặp các anh chị em của các Giáo Hội khác và các
cộng đồng Giáo Hội , tuy vẫn còn chia cách, nhưng vẫn cùng liên
kết với chúng ta trong việc kính mến Lời Chúa là nguyên lý và là nguồn mạch của sự
hiệp nhất đầu tiên và thực sự, cho dù sự hiệp nhất này không toàn vẹn. Mối liên hệ
này phải luôn luôn được củng cố qua các bản dịch Kinh Thánh cung, phổ biến Sách Thánh,
cầu nguyện đại kết với Kinh Thánh, đối thoại về chú giải, nghiên cứu và đối chiếu
các giải thích khác nhau về Kinh Thánh, trao đổi các giá trị hiện hữu trong các truyền
thống linh đạo khác nhau, loan báo và làm chứng tá chung về Lời Chúa trong một thế
giới bị tục hóa”.
Những nẻo đường
của Lời Chúa: việc truyền giáo
” Từ Sion
Thánh Luật ban xuống và từ Jerusalem Lời Chúa phán truyền ” (Is 2,3). Lời Chúa
được nhân cách hóa ”đi ra” khỏi nhà mình, ra khỏi đền thờ và tiến bước dọc theo những
nẻo đường thế giới để gặp cuộc đại lữ hành mà các dân tộc trên trái đất đã khởi xướng
hầu tìm kiếm chân lý, công lý và hòa bình. Thực vậy, cả nơi các thành thị hiện đại
bị tục hóa, nơi các quảng trường và đường phố, nơi mà dường như thái độ bất tín và
dửng dưng đang hiển trị, nơi mà sự ác dường như lướt thắng sự thiện, tạo cho người
ta có cảm tưởng thành Babilone chiến thắng Jerusalem, vẫn có một khao khát thầm kín,
một niềm hy vọng manh nha, một nỗi rên xiết mong chờ. Như ta đọc thấy trong sách ngôn
sứ Amos, ” Này đây sẽ đến ngày Ta gửi đói khát đến
trong xứ, không phải đói cơm bánh, cũng chẳng phải là khát nước,
nhưng là đói khát nghe Lời Chúa ” (8,11). Sứ mạng truyền giảng Tin Mừng
của Giáo Hội muốn đáp ứng sự đói khát ấy.
Cả Chúa Kitô phục sinh cũng
kêu gọi các tông đồ đang do dự hãy ra khỏi biên cương chân trời được bảo bọc của họ:
” Các con hãy ra đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ..
giảng dạy họ tuân giữ tất cả những gì Thầy đã truyền cho các con
” (Mt 28,19-20). Kinh Thánh đầy những lời mời gọi ”đừng im tiếng”, hãy ”gào lên”,
hãy ”loan báo Lời Chúa dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện”, hãy trở thành
những người lính canh phá tan im lặng của sự dửng dưng lãnh đạm. Những nẻo đường mở
ra trước chúng ta giờ đây không phải chỉ là những con đường trên đó thánh Phaolô hoặc
những nhà truyền giáo đầu tiên đã đi qua, hoặc sau các vị, là tất cả những nhà thừa
sai tìm đến với dân ngoại ở những vùng đất xa xăm.
11. Giờ đây,
việc truyền thông trải rộng một mạng lưới bao trùm toàn thể địa cầu và lời mời
gọi của Chúa Kitô nay có một ý nghĩa mới: ” Điều mà Thầy nói với các con
trong bóng tối hãy nói trong ánh sáng, và điều các con nghe rỉ tai hãy
rao giảng trên mái nhà ” (Mt 10,27). Chắc chắn, Lời Kinh Thánh phải duy trì sự
hiển hiện đầu tiên và phổ biến qua văn bản được in ấn, với những bản dịch được thực
hiện theo những ngôn ngữ khác nhau trên trái đất. Nhưng tiếng nói của Lời Chúa cũng
phải vang dội qua đài phát thanh, các mạng Internet, các kênh truyền bá trực tuyến,
các đĩa CD, DVD, các Podcast, vv; Lời Chúa phải xuất hiện trên các màn ảnh truyền
hình, điện ảnh, trên báo chí, trong các biến cố văn hóa và xã hội.
Hình
thức truyền thông mới mẻ này, so với truyền thông theo truyền thống, có những qui
luật riêng để diễn tả và vì thế, cần phải trang bị, không những về mặt kỹ thuật, nhưng
cả về mặt văn hóa cho công trình này. Trong một thời đại bị hình ảnh thống trị, hình
ảnh được trình bày đặc biệt qua phương tiện trổi vượt trong ngành truyền thông là
truyền hình, kiểu mẫu được Chúa Kitô ưu tiên sử dụng vẫn còn đầy ý nghĩa và gợi ý.
Ngài dùng các biểu tượng, kể chuyện, ví dụ, kinh nghiệm thường nhật, dụ ngôn: ”
Chúa nói với họ về nhiều điều bằng dụ ngôn.. và Ngài không nói gì với
dân chúng mà không dùng dụ ngôn ” (Mt 13,3.34). Khi loan báo nước Thiên Chúa,
Chúa Giêsu không bao giờ lướt trên đầu những người đối thoại với một thứ ngôn ngữ
mơ hồ, trừu tượng và xa lạ, nhưng Ngài chinh phục họ ngay từ phần đất nơi họ đặt chân
lên, để hướng dẫn họ, từ cuộc sống thường nhật đến mạc khải nước trời. Vì thế, cảnh
tượng mà thánh Gioan gợi lại thật là ý nghĩa: ” Một số người muốn
bắt Chúa Giêsu, nhưng không ai dám ra tay bắt Ngài. Lính canh trở về
gặp các trưởng tế và người Biệt Phái; những người
này nói với họ: Tại sao các người không điệu hắn về
đây? Lính canh đáp: ”Chưa hề có ai nói như ông ấy !” (7,44-46).
12. Chúa Kitô tiến bước dọc theo những con đường trong thành thị chúng ta và
dừng lại trước ngưỡng của nhà chúng ta: ”Này đây, Ta đứng ở cửa
và gõ. Nếu có ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào, dùng bữa tối với người
ấy và người ấy ở với Ta ” (Kh 3,20). Gia đình , với
những niềm vui và thảm kịch trong 4 bức tường gia cư, là một không gian cơ bản mà
Lời Chúa phải đi vào. Kinh Thánh rải rác những mẫu chuyện lớn nhỏ về gia đình và tác
giả Thánh Vịnh mô tả một cách linh hoạt khung cảnh thanh thản một người cha ngồi tại
bàn ăn, với người vợ, giống như cây nho sai trái, và các con cái, như những ”ngành
ôliu” (Tv 128). Chính Kitô giáo nguyên thủy đã cử hành phụng vụ trong đời sống thường
nhật của một gia cư, cũng như Israel ủy thác cho gia đình việc cử hành lễ Vượt Qua
(cf Xh 12,21-27). Sự thông truyền Lời Chúa diễn ra qua hệ thống gia đình, trong đó
cha mẹ trở thành ”những người đầu tiên thông truyền đức tin” (LG 11). Và tác giả Thánh
Vịnh cũng nhắc nhớ rằng ” điều mà chúng tôi đã nghe và đã
biết, và cha ông chúng tôi đã kể lại cho chúng tôi, chúng tôi không
giấu diếm con cái chúng tôi, nhưng kể lại cho thế hệ mai sau những hoạt
động vinh hiển và quyền năng của Chúa và những kỳ công
Chúa đã làm.. và sau này chúng sẽ kể lại cho con cháu của chúng ” (Tv 78,3-4.6).
Vì thế, mỗi nhà cần có cuốn Kinh Thánh riêng, gìn giữ cẩn thận và xứng đáng, đọc và
cầu nguyện với Kinh Thánh; gia đình phải đề ra những hình thức và kiểu mẫu giáo dục
cầu nguyện, huấn giáo, học hỏi về việc sử dụng Kinh Thánh, để ”các thanh niên thiếu
nữ, người già cùng với trẻ em” (Tv 148,12) lắng nghe, hiểu, chúc
tụng và sống Lời Chúa. Đặc biệt các thế hệ trẻ, trẻ em và người trẻ, phải được giáo
dục thích hợp và chuyên biệt để giúp họ cảm thấy sự thu hút của hình ảnh Chúa Kitô,
mở rộng cửa trí thông minh và tâm hồn họ, kể cả bằng những cuộc gặp gỡ và chứng tá
chân thực của người lớn, ảnh hưởng tích cực của bạn hữu và sự tháp tùng rộng lớn của
cộng đồng Giáo Hội.
13. Chúa Giêsu, trong dụ ngôn về người gieo
giống, nhắc nhở chúng ta rằng có những thửa đất khô cằn, nhiều sỏi đá, bị những bụi
gai bóp nghẹt (cf Mt 13,3-7). Ai tiến bước trên những nẻo đường thế giới cũng khám
phá thấy những hố trũng, những đau khổ và nghèo đói , tủi nhục
và áp bức, nạn bị gạt ra ngoài lề và lầm than, bệnh tật thể lý và tâm lý, cô đơn.
Nhiều khi những sỏi đá trên đường bị đẫm máu vì chiến tranh và bạo lực, nơi các dinh
thự quyền lực nạn tham nhũng quyện với bất công. Vang lên tiếng kêu của những người
bị bách hại vì trung thành với lương tâm và niềm tin của họ. Có những người bị chao
đảo vì cuộc khủng hoảng hiện sinh hoặc có một tâm hồn vắng bóng hướng đi mang lại
ý nghĩa và giá trị cho chính cuộc sống. Giống như ”những bóng đi qua, như một hơi
thở tàn lụi” (Tv 39,7), nhiều người cảm thấy bị đè nặng vì sự im lặng của Thiên Chúa,
vì Ngài dường như vắng bóng và dửng dưng: ” Lạy Chúa, Chúa tiếp tục quên
con cho đến bao giờ? Chúa che giấu tôn nhan với con cho đến bao
giờ ?” (Tv 13,2). Và sau cùng là mầu nhiệm sự chết xuất hiện trước mắt mọi người.
Tiếng thở than khắp nơi vì đau khổ như thế đi từ đất lên tới trời cao không ngừng
được Kinh Thánh diễn tả, Kinh Thánh đề nghị một đức tin có chiều kích lịch sử và nhập
thể. Chỉ cần nghĩ đến những trang đầy bạo lực và áp bức, tiếng kêu ai oán và liên
lỷ của Ông Gióp, những lời cầu khẩn thiết tha trong Thánh vịnh, cuộc khủng hoảng tinh
tế trong nội tâm phủ ngập tâm hồn Qohelet, những lời tố giác mạnh mẽ của các ngôn
sứ chống lại các bất công xã hội. Đàng khác, tội lỗi căn cội bị quyết liệt lên án,
không chút giảm khinh, tội lỗi xuất hiện với tất cả quyền lực tàn phá của nó ngay
từ đầu nhân loại trong một văn bản nền tảng của sách Sáng Thế (c.3). Thực vậy, ”mầu
nhiệm sự ác” hiện diện và hành động trong lịch sử, nhưng nó bị Lời Chúa vạch trần,
trong Đức Kitô, Thiên Chúa bảo đảm chiến thắng của sự thiện trên sự ác.
Nhưng trong Kinh Thánh, hình ảnh trổi vượt nhất chính là Chúa Kitô, Ngài khai mạc
sứ vụ công khai với mộ lời loan báo hy vọng cho những người rốt cùng trên trái đất:
“Thánh Thần Chúa ngự xuống trên tôi; vì thế Ngài đã xức dầu thánh
hiến tôi và sai tôi đi mang tin mừng cho người nghèo khó,
công bố sự giải thoát cho các tù nhân và người mù được
thấy; trả tự do cho những người bị áp bức, công bố năm hồng
ân của Chúa” (Lc 4,18-19). Đôi tay của Chúa bao lần đặt trên những thân thể bệnh
hoạn hoặc bị nhiễm bệnh, lời Ngài công bố công lý, trao ban hy vọng cho người bất
hạnh, ban ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi. Sau cùng, chính Ngài hạ mình xuống mức độ tột
cùng, ” từ bỏ mọi vinh quang, mặc lấy thân phận tôi tớ, trở nên giống phàm
nhân.. Ngài cư xử như một người thường
và càng hạ mình hơn nữa, vâng phục cho đến chết và chết
trên thập giá ” (Pl 2,7-8).
Vì thế, Ngài cảm thấy sợ chết
(”Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này xa con!), cảm thấy cô đơn và bị bỏ
rơi, và bị bạn hữu phản bội, đi sâu vào trong tối tăm của đau đớn dữ dằn nhất về thể
lý với cuộc đóng đanh, và thậm chí cả trong tăm tối do sự im lặng của Chúa Cha
(”Lạy Chúa của con, Lạy Chúa con, sao Chúa bỏ con ?”) và đi tới tận vực thăm của
mỗi người, vực thẳm của cái chết (”Ngài kêu lớn tiếng rồi tắt thở ”). Quả thực
người ta có thể áp dụng cho Ngài định nghĩa mà ngôn sứ Isaia đã đành cho Người Tôi
Tớ Chúa: ” Người của đau khổ, quen thuộc với khổ đau”
(53,3). Nhưng chính trong lúc cùng cực ấy, Ngài không ngừng là Con Thiên Chúa: trong
tình liên đới yêu thương và với sự hy sinh bản thân, Ngài đặt trong sự giới hạn và
trong sự ác của nhân loại một hạt giống thiên tính, hay một nguyên lý giải thoát và
cứu độ; qua sự hiến thân cho chúng ta, qua sự cứu chuộc, Ngài chiếu sáng đau khổ và
chết chóc mà Ngài đã chấp nhận và sống, và cũng mở ra cho cả chúng ta bình binh của
sự sống lại. Vì thế, Kitô hữu có sứ mạng loan báo Lời Chúa hy vọng, bằng cách chia
sẻ với người nghèo và người đau khổ, bằng chứng tá đức tin trong Nước sự thật và sự
sống, thánh thiện và ân phúc, công lý, tình thương và hòa bình, qua sự gần gũi yêu
thương không xét đoán và kết án, nhưng nâng đỡ, soi sáng, an ủi và tha thứ, theo Lời
Chúa Kitô: ” Hãy đến cùng tôi hỡi anh em là những người
mệt mỏi và bị áp bức, tôi sẽ bổ dưỡng cho ” (Mt 11,28).
14. Trên những nẻo đường thế giới, Lời Chúa tạo cho các tín hữu Kitô một cuộc
gặp gỡ khẩn trương với dân tộc Do thái , mà chúng ta có liên hệ mật thiết vì
cùng nhìn nhận và yêu mến Kinh Thánh Cựu Ước và vì từ Israel ”Chúa Kitô đến theo xác
thể” (Rm 9,5). Tất cả các trang Sách Thánh Do thái chiếu sáng mầu nhiệm Thiên Chúa
và con người, biểu lộ các kho tàng suy tư và luân lý, vạch rõ hành trình dài của lịch
sử cứu độ cho đến khi viên mãn, mạnh mẽ chiếu sáng cuộc nhập thể của Lời Chúa trong
những biến cố con người. Những trang Sách Thánh ấy cho chúng ta hiểu trọn vẹn hình
ảnh Chúa Kitô, Ngài đã tuyên bố ” tôi đến không phải để hủy
bỏ Luật và các Ngôn Sứ, nhưng để hoàn tất ” (Mt 5,17). Các trang
ấy là con đường đối thoại với dân tuyển đã ”được Thiên Chúa nhận làm con, được vinh
quang, giao ước, lề luật, việc phụng tự và lời hứa” (Rm 9,4), và phong phú hóa sự
giải thích của chúng ta về Kinh Thánh với những nguồn mạch phong phú của truyền thống
chú giải Do thái.
” Phúc cho người Ai Cập dân Ta, người
Assiri công trình của tay Ta và Israel gia sản của Ta” (Is 19,25). Vì thế Chúa
mở rộng áo choàng bảo bọc của phúc lành Ngài trên mọi dân tộc trên trái đất, Chúa
muốn rằng ” Mọi người được cứu độ và
nhận biết chân lý ” (1 Tm2,4). Cả các tín hữu Kitô chúng ta, dọc theo những con
đường của thế giới, cũng được mời gọi đi vào cuộc đối thoại, trong niềm tôn trọng,
với những người nam nữ thuộc các tôn giáo khác mà không rơi vào chủ trương tôn giáo
hỗn hợp lẫn lộn và làm suy giảm căn tính tinh thần của mình. Họ là những người lắng
nghe và trung thành thực hành những chỉ dẫn trong Sách Thánh liên hệ, bắt đầu từ Hồi
giáo là tôn giáo đón nhận nhiều nhân vật, biểu tượng và đề tài Kinh Thánh vào trong
truyền thống của họ, và nêu cho chúng ta chứng tá một đức tin chân thành nơi Thiên
Chúa duy nhất, từ bi và thương xót, là Đấng Sáng Tạo mọi loài và là Thẩm Phán của
nhân loại.
Ngoài ra, Kitô hữu tìm được những hòa hợp chung với các truyền
thống tôn giáo lớn từ Đông phương; qua các Sách Thánh của họ, họ dạy chúng ta sự tôn
trọng sự sống, sự chiêm niệm, thinh lặng, đơn sơ, từ bỏ, như trong Phật giáo. Hoặc
như trong Ấn giáo, có sự ca ngợi ý thức thánh thiêng, hy sinh, hành hương, chay tịnh,
những biểu tượng thánh thiêng. Hoặc, trong Khổng giáo, họ dạy sự khôn ngoan và các
giá trị gia đình và xã hội. Cả đối với các tôn giáo cổ truyền với các giá trị tinh
thần của họ được biểu lộ qua các nghi lễ và qua các nền văn hóa truyền khẩu, chúng
ta cũng muốn bày tỏ mối quan tâm thân tình và đối thoại với họ trong niềm tôn trọng,
Và cả những người không tin Thiên Chúa, nhưng đang cố gắng ” thực hành công lý,
yêu mến điều tốt lành, tiến bước trong sự khiêm tốn
” (Mi 6,8), chúng ta phải cộng tác với họ để đạt tới một thế giới công bằng và an
bình hơn, và trong cuộc đối thoại, làm chứng tá chân thành về Lời Chúa, Đấng có thể
tỏ lộ cho họ những chân trời mới mẻ và cao cả hơn của chân lý và tình thương.
15. Trong Thư gửi các nghệ sĩ (1999), Đức Gioan Phaolô 2 nhắc
nhớ rằng ”Kinh Thánh đã trở thành một thứ ”Bộ từ điển mênh mông” (Paul Claudel) và
một thừ ”bản đồ ảnh tượng” (Marc Chagall) mà văn hóa và nghệ thuật Kitô kín múc từ
đó” (n.5). Văn hào Goethe xác tín rằng sách Tin Mừng là ”tiếng mẹ của Âu Châu”. Như
người ta vẫn thường nói, Kinh Thánh là ”Bộ luật lớn nhất” của văn hóa hoàn cầu: các
nghệ sĩ đã ”chấm” bút vẽ vào trong bộ mẫu tự ấy, được trang điểm bằng bao nhiêu câu
chuyện, biểu tượng, hình ảnh trong các trang Kinh Thánh; các nhạc sĩ đã lấy hứng từ
các văn bản thánh, nhất là các thánh vịnh, để tạo nên các bản hợp xướng của họ; các
văn sĩ, qua bao thế kỷ, đã lấy lại các trình thuật cổ xưa để biến thành các dụ ngôn
hiện sinh; các thi sĩ đã tự hỏi về mầu nhiệm tinh thần, về vô biên, sự ác, tình yêu,
sự chất và sự sống, thường lấy hứng thơ văn từ các trang Kinh Thánh; các nhà tư tưởng,
khoa học gia và ngay cả xã hội nhiều khi cũng tham chiếu các quan niệm tinh thần và
luân lý đạo đức của Lời Chúa, cho dù là để đối nghịch (ví dụ chúng ta nghĩ tới Mười
Giới Răn). Cả khi hình ảnh hoặc ý tưởng hiện diện trong Kinh Thánh bị bóp méo, người
ta vẫn nhận thực rằng hình ảnh hay ý tưởng ấy là điều không thể thiếu được và chúng
tạo nên nền văn minh chúng ta.
Chính vì thế, Kinh Thánh là điều cần thiết
không những đối với các tín hữu, nhưng cả với tất cả mọi người để tái khám phá ý nghĩa
đích thực của các thành ngữ văn hóa và nhất là tìm lại chính căn tính lịch sử, văn
minh, nhân bản và tinh thần của chúng ta. Kinh Thánh cũng dạy chúng ta via pulchritudinis
, con đường thẩm mỹ, để hiểu và đạt tới Thiên Chúa (như Thánh vịnh thứ 47,8 mời gọi
chúng ta: ” Hãy hát mừng Thiên Chúa bằng nghệ thuật !”). Chính nơi Kinh Thánh
có căn cội sự cao cả của chúng ta và qua đó chúng ta có thể tự giới thiệu với một
gia sản cao quí cho các nền văn minh và văn hóa khác, không mang mặc cảm tự ti nào.
Vì thế, Knh Thánh phải được mọi người nhận biết và nghiên cứu, dưới khía cạnh vẻ đẹp
và sự phong phú nhân bản và văn hóa.
Tuy nhiên, Lời Chúa ”không bị xiềng xích”
vào một nền văn hóa nào, nói theo hình ảnh đầy ý nghĩa của thánh Phaolô (2 Tm 2,9);
trái lại, Kinh Thánh khao khát vượt lên các biên giới và chính Thánh Tông đồ là người
đặc biệt thực hiện sự Hội nhập văn hóa sứ điệp Kinh Thánh vào các nên văn hóa mới.
Đó chính là điều mà Giáo Hội ngày nay được mời gọi thực hiện qua một tiến trình tế
nhị nhưng cần thiết đã được giáo huấn của ĐGH Biển Đức 16 đẩy mạnh. Giáo Hội phải
làm cho Lời Chúa thấu nhập vào các nền hóa khác nhau và biểu lộ Lời Chúa theo các
ngôn ngữ, ý niệm, biểu tượng và truyền thống tôn giáo của họ. Nhưng Giáo Hội luôn
luôn phải có khả năng bảo tồn bản chất chân thực nội dung của Kinh Thánh, canh chừng
và kiểm soát những nguy cơ đi lệch đường.
Vì thế, Giáo Hội phải làm cho
các giá trị mà Lời Chúa cống hiến cho các nền văn hóa khác, được chiếu sáng rạng ngời,
để các nền văn hóa này được thanh tẩy và trở nên phong phú. Như Đức Gioan Phaolô 2
đã nói với hàng Giám Mục Kenya trong cuộc viếng thăm tại Phi châu hồi năm 1980, ”
Sự hội nhập văn hóa sẽ thực sự phản ánh việc nhập thể của Ngôi Lời,
khi một nền văn hóa được biến đổi và tái sinh nhờ Tin
Mừng, tạo nên những kiểu diễn tả độc đáo về sự sống, về
việc cử hành và tư tưởng Kitô, trong chính truyền thống của mình”.
KẾT LUẬN
” Tiếng nói mà tôi đã nghe
từ trời nói với tôi: ”Hãy cầm lấy cuốn sách được tay thiên thần mở ra
..”. Và thiên thần nói với tôi: ” Hãy cầm lấy và ăn ngấu nghiến;
nó sẽ làm cho ruột ngươi đầy cay đắng, nhưng miệng
ngươi sẽ ngọt như mật ong”. Tôi cầm lấy cuốn sách nhỏ từ tay
thiên thần và ăn ngấu nghiến; trong miệng tôi cảm thấy ngọt như
mật, nhưng sau khi tôi nuốt vào, tôi cảm thấy trong ruột tất
cả sự cay đắng ” (Kh 10,8-11).
”Anh chị em thân mến
trên toàn thế giới, cả chúng ta cũng hãy đón nhận lời mời gọi ấy; chúng ta hãy đến
gần bàn tiệc Lời Chúa, để nuôi sống mình ” không những bằng bánh nhưng còn
bằng những gì từ miệng Thiên Chúa phán ra ” (Dnl 8,3; Mt 4,4). Như một vĩ nhân
của nền văn hóa Kitô giáo đã quả quyết, Kinh Thánh ” có những đoạn
thích hợp để củng cố mọi hoàn cảnh nhân loại và những đoạn
thích hợp để gây sợ hãi ” (B. Pascal, Tư Tưởng, n.532, Ed. Brunschvicg).
Thực vậy, Lời Chúa ”ngọt hơn mật ong, hơn mật ong nguyên chất” (Tv 19,11), và là ”đèn
soi bước chân và ánh sáng soi đường đi” (Tv 119,105). Nhưng cũng như ”lửa hồng và
như cái búa đập vỡ tảng đá” (Gr 23,29). Lời Chúa như mưa tưới gội đất đai, làm cho
đất phì nhiêu và làm nảy mầm, như thế làm cho cả sự khô cằn của các sa mạc tinh thần
chung ta được trổ bông (cf Is 55,10-11). Nhưng Lời Chúa cũng ” sinh động,
hữu hiệu, sắc bén hơn gươm hai lưỡi; thấu tận nơi phân cách trong
linh hồn và tinh thần, đến tận xương tủy và phân
biệt những tình cảm và tư tưởng của con tim ” (Dt 4,12).
Chúng tôi thân ái nghĩ đến các học giả, các giáo lý viên và những người phục vụ Lời
Chúa, để bày tỏ với họ lòng biết ơn nồng nhiệt và chân thành vì sứ vụ quí giá và quan
trọng của họ. Chúng tôi cũng ngỏ lời với các anh chị em đang bị bách hại hoặc bị sát
hại vì Lời Chúa và vì chứng tá của họ cho Chúa Giêsu (Kh 6,9): với tư cách là chứng
nhân và tử đạo, họ kể cho chúng ta ”sức mạnh của Lời Chúa” (Rm 1,16), là nguồn cội
đức tin, đức cậy và lòng yêu mến của họ đối với Thiên Chúa và con người.
Vậy chúng ta hãy kiến tạo sự thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa một cách hữu hiệu và
bảo tồn sự thinh lặng sau khi lắng nghe, để Lời Chúa tiếp tục ở lại, sống và nói với
anh chị em. Hãy làm cho Lời Chúa vang dội vào đầu mỗi ngày của anh chị em, để Thiên
Chúa là lời đầu tiên và hãy để cho Lời Chúa vang âm trong anh chị em vào buổi tối
để Lời Chúa là lời nói cuối cùng.” Anh chị em thân mến, ”tất cả những người
đang ở với chúng tôi chào chào thăm anh chị em. Xin anh chị
em chào thăm tất cả những người yêu mến chúng tôi trong
đức tin. Xin ân sủng ở cùng tất cả anh chị em ” (Tt 3,15).